Thứ Ba, 14 tháng 4, 2009

Đọc “HỒI KÝ CỦA MỘT THẰNG HÈN” của TÔ HẢI

Nỗi khát khao nhỏ bé được cùng gia đình lo đón Tết mà người sĩ quan thiết giáp vừa thốt lên bỗng như vầng khói sương hư ảo. Ngay cái đỉnh đèo mà tôi vừa đứng bên anh cũng chìm dưới hình ảnh những xác chết ngổn ngang để xoá nhoà hẳn nét đẹp mà anh nhìn thấy. Cảnh sắc thiên nhiên không bao giờ thay đổi, nhưng tôi không thể quên những cuộc tàn sát từng diễn ra chính trên đoạn đường này, nhất là không thể quên những thân xác vào nhiều ngày tháng trước đã nằm gục theo mọi tư thế bên những gốc cây, những mô đất mà chúng tôi vừa bước qua...

Đọc “HỒI KÝ CỦA MỘT THẰNG HÈN” của TÔ HẢI

NGÕ CỤT VIỆT NAM

và giấc mơ về Thằng Hèn

CHILON CHILONIDES

˜ UYÊN THAO



Từng trang “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn” đưa tôi lui dần về bốn mươi năm trước.

Thuở đó, một buổi sáng cuối năm 1969, tại toà soạn tuần báo Diễn Đàn trên đường Tạ Thu Thâu Sài Gòn, anh Mặc Đỗ nhắc tôi thực hiện ngay số báo đặc biệt về Hồ Chí Minh vừa có tin đã chết.

Anh Mặc Đỗ là chủ bút và tôi là người điều khiển toà soạn.

Lời nhắc của anh tự nhiên làm bừng dậy một loạt hình ảnh từ ký ức.


Trước mắt tôi không còn khung cảnh toà soạn mà là đoạn đường đèo Mang Yang.

Đối diện với tôi không còn nhà văn Mặc Đỗ mà là người lính đầy bụi đất — một đại uý thiết giáp mà tôi nhớ tên là Đào Trọng Trấn. Tôi tới đây khi trận Đức Cơ đã dứt, nhưng toàn Vùng 2 đang căng thẳng vì cuộc nổi dậy của Fulro vào tuần lễ trước –– đêm Giáng Sinh 1965. Chúng tôi bước dọc hàng chiến xa rồi dừng bên một lùm cây. Đại uý Trấn bỗng chỉ tay xuống dải thung lũng bên quốc lộ bật la:

- Đẹp quá! Cảnh đẹp quá!

Rồi anh thở dài:

- Lúc này được cùng gia đình lo đón Tết mới thú!

Câu nói bất ngờ tỏ nỗi khát khao của vị chỉ huy đơn vị đang bảo vệ an ninh cho một điểm xung yếu nối cao nguyên với duyên hải đã theo tôi suốt đoạn đường trở lại thị xã Pleiku sau đó.

Tôi như nghẹn thở vì những hình ảnh hỗn loạn, vừa thấy mình dừng giữa dòng suối nhỏ tại Dakto đã lập tức ngồi bên một sân bóng tại Lệ Thanh, rồi chết sững tại một căn cứ địa phương quân Phú Bổn…

Bên tai tôi dội lên tiếng la của người lính vừa cùng tôi vục tay vào dòng suối.

Dòng suối hiện ra như nguồn hạnh phúc cho những kẻ thất thểu gần mười ngày giữa núi rừng khô khốc. Tất cả đang lao xuống suối như bày thú đói lao vào con mồi bỗng sững lại vì tiếng la và nhìn theo bàn tay chỏ một lùm cỏ đen lù lù trôi tới. Giữa đống cỏ và đám lá khô bập bềnh hiện lên một đám tóc rồi một gương mặt đen kịt ruồi muỗi giòi bọ — một đầu người xám xịt nhớp nhúa.

Chiếc đầu theo dòng nước từ từ trôi trước mắt chúng tôi để về đâu không ai biết.

Cũng chẳng bao giờ chúng tôi biết chiếc đầu đó là của ai, bị cắt lìa lúc nào, trong tình cảnh ra sao…

Rồi ngay trước mắt tôi là một phụ nữ với mớ tóc rối mù phủ dài phía trước.

Sợi thừng quấn quanh ngực buộc chiếc xác lên một nhánh cây khiến người đã chết không được nằm yên mà phải đứng gục đầu với hai bàn chân lửng lơ chạm hờ trên mặt đất. Những vệt máu tím ngắt kết dính mấy mảnh áo tả tơi vào bộ ngực nát bấy vì vết đạn.

Chỉ hơn mười tiếng đồng hồ trước đây, chắc chắn người phụ nữ này không thể nghĩ về điều xẩy ra cho chị như tôi đang thấy. Có thể chị vẫn thấy cuộc đời đầy tươi đẹp vì đang xum họp bên chồng con giữa buổi tối mừng lễ Giáng Sinh, dù ở một tiền đồn heo hút trên mảnh đất Phú Bổn xác sơ này.

Dù sao chị cũng may mắn vì chồng con chị đã chia chung mọi điều với chị và hẳn đang ở bên chị dưới mấy nhánh cây không xa. May mắn hơn nữa là chị cùng chồng con rồi sẽ có một nấm mồ vì thân xác còn treo tại đây thay vì trôi trên một dòng suối.

Dù quá quen với cảnh chết chóc, tôi vẫn không thể dừng lâu giữa những xác người dựng đứng bao quanh.

— Không cách gì trốn khỏi được!

Đó là mấy lời ngắn ngủi của một thiếu tá Biệt Động Quân.

Chúng tôi quen nhau từ tuổi học trò và gặp lại sau nhiều năm xa cách giữa vùng núi Chư Prong sặc mùi tử khí. Thằng bạn hiền hoà học cùng lớp với tôi từ trường Thăng Long qua trường Văn Lang Hà Nội mấy năm 1950-1953 mang gương mặt cằn cỗi khó ngờ.

Ngồi bệt trên bờ hào, nhìn quanh lơ đãng, anh nói với tôi mà như đang nói với chính mình:

— Tao không sợ hành quân mà chỉ sợ lúc trở về. Những lúc đó tao chỉ muốn trốn mà… không cách gì trốn khỏi được!

Tôi không ngạc nhiên về sự muốn trốn khi một cuộc hành quân chấm dứt.

Không muốn trốn sao được khi biết chắc đang chờ phía trước là những gương mặt căng thẳng đón xem trong số người về còn có người thân của mình không?

Càng muốn trốn hơn nữa khi phải nhìn nỗi đau oà vỡ của những người vợ yếu đuối, những đứa trẻ ngây thơ thấy chồng, cha trở về trong gói poncho, nhất là lúc cả đám đông chan hoà nước mắt vây quanh người chỉ huy để cùng nhao nhao cất lên một câu hỏi như đang mê sảng:

— Thiếu tá ơi, chồng tôi đâu?

Chẳng ai cần trả lời nhưng những câu hỏi cứ vang lên như những lằn đạn kinh hoàng không một lằn đạn kinh hoàng nào giữa trận địa so nổi.

Một rừng hoang ký ức vây hãm tôi trên đoạn đường dài do câu nói bất ngờ của đại uý Trấn.


Tôi không tìm nổi lý do chính đáng cho việc cần xô mọi người vào những cảnh sống mà tôi đã gặp.

Không lý do nào đứng vững khi trút cả tràng đạn vào ngực một phụ nữ yếu đuối và lúc nạn nhân đã gục xuống lại dựng đứng cái xác dưới một nhánh cây. Người phụ nữ đó phải sống giữa một tiền đồn chỉ vì có chồng là lính địa phương quân.

Càng không có lý do nào đứng vững khi những đứa trẻ chưa quá 5 tuổi đầu vẫn bị bắn hạ và treo xác chỉ vì cha chúng là người cầm súng.

Chỉ những con tim gạch đá và những bộ óc ngập đất bùn mới tạo nổi lý do chính đáng cho các hành động này, nhất là những nạn nhân còn trở thành con số ghi dấu chiến công đã diệt bao nhiêu tên địch!

Nỗi khát khao nhỏ bé được cùng gia đình lo đón Tết mà người sĩ quan thiết giáp vừa thốt lên bỗng như vầng khói sương hư ảo. Ngay cái đỉnh đèo mà tôi vừa đứng bên anh cũng chìm dưới hình ảnh những xác chết ngổn ngang để xoá nhoà hẳn nét đẹp mà anh nhìn thấy. Cảnh sắc thiên nhiên không bao giờ thay đổi, nhưng tôi không thể quên những cuộc tàn sát từng diễn ra chính trên đoạn đường này, nhất là không thể quên những thân xác vào nhiều ngày tháng trước đã nằm gục theo mọi tư thế bên những gốc cây, những mô đất mà chúng tôi vừa bước qua...


Những hình ảnh đó đã trở thành đời sống Việt Nam do ý hướng của một con người mà anh Mặc Đỗ vừa nhắc tôi thực hiện số báo đặc biệt về con người ấy.

Lúc nhấc điện thoại liên lạc với các cộng tác viên, tôi nhớ lại mấy câu thơ “Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua — Thắng lợi tin vui khắp mọi nhà…” của Hồ Chí Minh mà đài Hà Nội truyền đi và bên tai vang lên câu nói của người tuỳ viên văn hoá toà đại sứ Mỹ vào dịp tiếp xúc với một nhóm cầm bút trẻ tại Sài Gòn mấy năm trước, năm 1964. Chưa bao giờ tôi nghĩ người Mỹ hiểu thấu hoặc ưu tư về tâm cảnh người dân Việt Nam, nhưng câu nói của người tuỳ viên đã khiến tôi chấn động thực sự. Ông ta hỏi: “Giới trẻ Sài Gòn nghĩ gì về nhân vật Hồ Chí Minh?” Bạn tôi, Vũ Ngọc Đĩnh, trả lời: “Hồ Chí Minh là người yêu nước, nhưng đã lầm đường.” Người tuỳ viên văn hoá mà đa số lớp trẻ Sài Gòn nghĩ là mù mịt về văn hoá Đông Phương đã lắc đầu nói ông ta không nghĩ vậy, vì theo ông ta, người yêu nước trước hết phải thương dân. “Hồ Chí Minh đam mê sự nghiệp của ông ta chứ không thương dân. Không thể bảo ông ta là người yêu nước!”

Kể từ ngày đó, tôi luôn cố tìm con tim rung động trước nỗi đau của đồng bào nơi những con người được tôn xưng là yêu nước và không ngớt thắc mắc về sự viện dẫn tình yêu nước để đẩy đất nước vào vòng lửa đạn với hàng trăm, hàng ngàn, thậm chí hàng triệu cái chết oan khiên đau đớn.

Ít ngày trước khi ghé Mang Yang, tôi ghé một quán nước gần khoảnh đất trống bên quận lỵ Lệ Thanh cũng là sân bóng chuyền của những người lính đồn trú gần đó và đám trai trẻ địa phương. Niềm vui quây quanh trái bóng tại đây đã biến một nhóm sáu chàng trai thành tâm điểm thu hút. Tôi gặp những chàng trai này khi họ vừa qua một trận đấu, đang ngồi với đám học sinh nhỏ ngưỡng mộ họ. Thấy tôi đeo máy ghi âm, cả nhóm đề nghị mở cho nghe một bài ca. Cuốn băng đang nằm trong máy của tôi chỉ ghi phần kết bản trường ca Mẹ Việt Nam của Phạm Duy. Tôi không tin đám trẻ mười tám, hai mươi sống giữa vùng gió bụi mưa mù này thích nghe bản nhạc, nhưng vẫn chiều ý. Không ngờ họ đòi tôi cho nghe lại, và hết thẩy đều như chết lặng trước từng lời ca. Rồi một chàng trai vừa chấm mấy giọt nước mắt trên gò má vừa xin tôi cuốn băng. Nỗi xúc động hiện trên từng khuôn mặt khiến tôi hứa sẽ trở lại vào tuần sau và tặng cuốn băng ghi trọn ba phần của bản trường ca thay vì cuốn băng này.

Tôi trở lại như đã hứa, nhưng quán nước bên đường chỉ còn là đống dấu tích tan hoang.

Đợt pháo kích bất ngờ vào buổi chiều ba ngày trước đã biến cả sáu chàng cầu thủ bóng chuyền, đám học sinh nhỏ và gia đình chủ quán thành tro bụi, khi họ đang ngồi quây bên nhau như thường lệ.

Các nạn nhân vừa được chôn cất ngày hôm trước.


Tôi quay ra xe như kẻ vô hồn, thay vì mở máy xe, đã mở đoạn cuối cuốn băng với những lời ca mà tôi ngỡ chỉ là tiếng nấc nghẹn của Thái Thanh:

Mẹ Việt Nam ơi! Mẹ Việt Nam ơi!

Chúng con đã về khát khao hơi Mẹ

Chúng con xin thề giữ thơm quê Mẹ
Cuộc đời rồi phai tàn sau thế giới
Chỉ còn tình yêu của Mẹ mà thôi!

Mấy giọt nước mắt trên gò má chàng trai chỉ một lần thoáng gặp tại xó rừng mịt mù bụi đỏ như có ma lực thúc đẩy một nỗi bứt rứt khó tả. Tôi cứ thấy những giọt nước mắt đó khởi từ con tim đằm thắm của một tâm hồn nhân hậu chỉ hứa hẹn sự tốt lành. Những con tim và những hứa hẹn đó hẳn có ở nhiều nơi nhưng số phận dành cho tất cả chỉ là tro bụi.


Và, những dòng chữ của Tô Hải hiện lên:

“Tôi đã thấy…Cả một xã không còn bóng đàn ông, trắng xóa khăn tang của các chị, các mẹ... Cả một đơn vị, một chuyến phà, một đoàn xe, một gương mặt, thậm chí một bà mẹ già còng lưng chở lính qua sông, mẹ Suốt, một tiểu đội con gái đêm đêm san đường, lấp hố bom, mới gặp mặt hôm trước thì hôm sau đã thành tro bụi. Đố ai tìm được cái xác nào sau khi bom B52 rơi trúng bến phà Xuân Sơn nhỏ bé ở Quảng Bình, ở ngã ba Đồng Lộc ấy! Bản thân tôi, khi trực tiếp gặp họ, tôi đều nghĩ: “Chắc đây là lần gặp... cuối cùng.” Và, quả là như vậy”. (HKCMTH – tr. 279)

Đó là quê hương Việt Nam trong cuộc chiến dài gần nửa thế kỷ mà chính người tự nguyện bước vào cuộc chiến như Tô Hải đã nhận định: “Với tôi cũng như với nhiều người được đọc, được nghe và có được tí chút độc lập suy nghĩ thì cuộc chiến chống Mỹ chẳng có gì là bất ngờ… Đâu phải nó nổ ra từ vụ hải quân tí hon Bắc Kỳ dám “đánh cú liều” vào tầu Maddox ở vịnh Bắc Bộ! Quần áo, mũ, giày, thắt lưng, bao đạn, lương khô... tất cả là...Tàu! Kalachnikoff, T54, Sam I, Sam II, Mig 17 hay Mig 21...tất cả đều đến từ Matxcơva... Còn dân Việt Nam chỉ có... người mà con người Việt Nam thì chỉ cần đứng trước hai chữ “xâm lược” là sẵn sàng, kẻ thù nào cũng... “oánh”!” (HKCMTH – tr. 266)

Cảm giác nhục nhã vì mang thân nô lệ khiến nỗi uất hận do cảnh sống bất công những ngày tháng trước vẫn chưa nguôi, dù chế độ thực dân Pháp đã chấm dứt từ đầu tháng 3-1945 và đất nước đã có một chính quyền tự chủ khi người Nhật buông súng đầu hàng. Cảm giác này khiến một thế hệ trẻ dễ dàng biến thành công cụ trong tấn tuồng lường gạt bi thảm mà nạn nhân gồm cả bản thân họ.

Tô Hải kể về cái ngày khởi đầu sa hố đó:

“Đúng ngày 17 tháng 8 năm 1945, chúng tôi kéo nhau đến quảng trường Nhà Hát Lớn Hà Nội mít-tinh chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim. Cuộc mít-tinh bắt đầu được mấy phút bỗng hàng loạt cờ đỏ sao vàng được tung ra, cờ quẻ ly bị giật xuống và trên bục diễn giả xuất hiện một người đeo poọc-hoọc, đăng đàn diễn thuyết, kêu gọi đồng bào đi theo Việt Minh, đánh Pháp, đuổi Nhật, đòi lại áo cơm, tự do, xóa bỏ gông xiềng... Những khẩu hiệu vừa phát ra đã có hàng ngàn người hô to hưởng ứng. Không một tiếng súng. Không một sự phản kháng từ ai, từ đâu, dù trại lính Nhật ở cách đó chỉ khoảng 300 mét!

Cuộc khởi nghĩa thành công nhanh như thế đó!

Sau này, loại thanh niên “yêu nước hồn nhiên” bọn tôi đâu có dám lên tiếng khi nghe người ta tự tâng bốc kể công với lịch sử rằng “Đảng đã lãnh đạo toàn dân nổi dậy đánh Pháp, đuổi Nhật dành tự do, độc lập cho đất nước!”

Và các nhà viết sử Nhà Nước Cộng Sản cũng lờ tịt luôn cái chuyện Việt Minh cướp chính quyền từ chính phủ quân chủ lập hiến Trần Trọng Kim — không khác vụ lật đổ chính phủ Kerensky ở nước Nga trong lúc nội tình nước này đang bối rối.

Thực tế lúc ấy là…. chúng tôi có biết gì đến cái đảng cộng sản cộng xiếc, nhất là ông Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh sau đó còn công khai tuyên bố GIẢI TÁN ĐẢNG của ông ta trước thế giới và đồng bào cả nước! Trong chính phủ có đầy đủ các vị Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh... và cả “cố vấn” Bảo Đại nữa.

“Quả lừa lịch sử” bắt đầu chính là từ đây! Vận nước khốn nạn nhất cũng bắt đầu từ đây!

Tại sao Việt Nam không độc lập như Mã Lai, Nam Dương, Ấn Độ, Thái Lan, Phi Luật Tân... mà phải qua 30 năm chém giết kẻ thù thì ít... mà chém giết nhau thì nhiều?”… Đây là sự hy sinh cực kỳ vô duyên cho cái chủ nghĩa không tưởng, cho sự tiếm quyền của một lớp người âm mưu làm VUA của cái nước Việt Nam khốn khổ này bằng chiêu bài Độc Lập, Tự Do mà ở các nước, người ta đã có từ nửa thế kỷ nay rồi vì may mắn thay, họ không có Đảng Cộng Sản cầm quyền! Bi kịch lớn của triệu tấn bi kịch nhỏ chính là đây! (HKCMTH – tr. 424 - 425)

Bi kịch đã phủ trùm đất nước do lệnh truyền chém giết viện dẫn lý do “đế quốc Mỹ đang xâm chiếm miền Nam, đồng bào bị bóc lột, đày đọa”, dù nhiều người sắm vai trong tấn kịch luôn tái tê tự vấn: “Từ nay đến ngày “ngụy nhào… miền Bắc còn bao nhiêu xương rơi, máu đổ? Phía bên kia thì thằng Phát, thằng Đạt, những đứa em tôi; thằng Định, thằng Thọ, những bạn học của tôi ... bao giờ sẽ trở thành món “thịt băm” trước cái quyết tâm “còn cái lai quần cũng đánh” của “ta”? (HKCMTH – tr.291 - 292)

Vì họ đã thấy không đế quốc nào xâm lược, không có ai bị đọa đày mà cuộc chiến đã khởi từ mưu đồ độc bá của chỉ một nhóm, thậm chí của chỉ một người:

“Không có ông Hồ, không có cái đảng này thì đâu đến nỗi cả dân tộc tôi bị chiến tranh tàn phá, anh em, họ hàng đâu đến nỗi chia lìa, chém giết lẫn nhau, đâu đến nỗi thua xa những nước cũng thuộc địa như nước tôi đến cả thế kỷ về mọi mặt.” (HKCMTH tr. 388).

Mục tiêu thực sự của cuộc chiến đã được nêu hàng ngày bằng mọi lời lẽ có thể tóm gọn trong mấy câu thơ:

Giết! Giết nữa! Bàn tay không phút nghỉ!

Cho đồng lúa tốt, thuế mau xong

Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng

Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt!

(Tố Hữu)

Không gì phi lý bằng phải đổ máu để tạo sự bền lâu cho một phe đảng và càng phi lý hơn là đổ máu để phụng thờ những kẻ xa lạ ở những góc trời mù mịt. Nhưng, nhìn rõ thực tế lại chỉ để bó tay đối diện với một tự vấn không kém đau xót: “…Rũ bỏ những nhận thức sai lầm, chịu nhận là mình đã lạc lối, kiên quyết giã từ cái chủ nghĩa nặng mùi xác chết ấy đi, sao nó khó khăn, vất vả đến thế?” (HKCMTH – tr. 388)


Đây là câu hỏi đã được đặt ra từ lâu và từng khiến bản thân tôi trong thập niên 1960 bị coi là côn đồ láo xược do đã gán cho các nhân vật đại danh của thế kỷ cái biệt danh “đồ chó”. Đến lúc này, tôi vẫn nghĩ bất kể lãnh phản ứng nào, tôi sẽ không bao giờ thay nổi thái độ từng có với những Bertrand Russel, những Jean Paul Sartre … Chữ “đồ chó” chính là chữ Sartre viết ra để gán cho ai không chịu cúi đầu trước các chính quyền Cộng Sản. Sartre gọi những người này là “đồ chó” vì họ đã chống lại một lý thuyết, mà theo Sartre, sẽ đem lại tốt lành cho đời sống và cũng theo Sartre, “đảng Cộng Sản không bao giờ lầm lẫn!”

Giữa thời điểm mà Staline đã lộ hình bạo chúa thủ tiêu hàng chục triệu nạn nhân vô tội; giữa thời điểm mà hồng quân Liên Xô chiếm đóng Budapest, treo cổ những người Hung yêu nước Imre Nagy, Pal Maleter, tàn sát những người Tiệp đòi hỏi tự do tại Praha, những công nhân Ba Lan nổi dậy tại Poznan; giữa thời điểm mà miền Bắc Việt Nam chưa xoá hết dấu vết tội ác Cải Cách Ruộng Đất, trong khi cuộc chiến đẩy hàng triệu người dân miền Nam vào cảnh vất vưởng trên đường chạy loạn với nỗi đau không ít người thân bị cướp đoạt mạng sống… mà có kẻ nhục mạ những người không muốn cảnh đó tiếp diễn là chó má thì không thể chịu nổi –– nhất là còn nhân danh giải Nobel, nhân danh hào quang trí thức đòi đưa ra xét xử những người ngăn chống các hành vi tàn sát đồng bào với lập luận đảng Cộng Sản Việt Nam đang bảo vệ chính nghĩa dân tộc và đời sống của người dân! Càng không chịu nổi khi chính Bertrand Russel, chính Jean Paul Sartre… đều phản đối các sự việc tại Đông Âu, nhưng lại bưng tai bịt mắt trước hàng ngàn vành khăn tang tại Huế, trước những xác trẻ thơ Việt Nam bị xé nát bởi đạn pháo, bởi mìn bẫy, trong khi từng ngày từng giờ ở khắp nơi vẫn đề cao từng câu nói của Russel như thánh chỉ, chẳng hạn “toàn bộ vấn đề với thế giới chỉ do những kẻ điên rồ và cuồng tín luôn tin là mình đúng!..” hoặc đề cao nỗi khát khao của Russel là “không có gì khác hơn tình yêu và lòng thương xót trước sự cùng khốn của con người!..”

Tôi chỉ thấy hiển hiện những kẻ cùng cực ngu si trước thực tế hoặc cùng cực xảo trá trong ý đồ mượn các sắc màu rực rỡ che giấu một thực chất tởm lợm và nhớ tới nỗi ô nhục của Russel năm 1940 khi bị người dân Mỹ đuổi khỏi ghế giáo sư một trường đại học New York do lối sống vô đạo đức, nhớ tới sự hằn học của Sartre với Raymond Aron do Aron vạch ra sự ngu độn đề cao chủ nghĩa Cộng Sản của Sartre. Có thể vì những điều này mà Russel luôn xuyên tạc để bôi bẩn mọi sự kiện dính tới người Mỹ và Sartre trút ra lời lẽ đê tiện với ai chia xẻ quan điểm của Raymond Aron. Và, tôi đã khẳng định chính các nhân vật đại danh ấy mới xứng đáng nhận cái từ “đồ chó” do Sartre viết ra. Bởi, đâu còn là người khi vì bất kỳ lý do nào đã cúi đầu tôn xưng kẻ gây tội ác bằng cách trút tội ác cho các nạn nhân, trong khi mọi việc xảy ra ngay trước mắt.


Tôi chỉ có thể đổi ý với Jean Paul Sartre vì cuối cùng, ông ta đã nghĩ đến những người Việt Nam khốn khổ phải đối đầu với mọi hiểm nghèo giữa biển cả, giữa rừng sâu để mong thoát khỏi cảnh sống địa ngục trên quê hương mình. Hành động cuối đời của Sartre có thể kể như ngầm chứa một câu tự thú đầy ý nghĩa rằng “kể cả là chó vẫn đáng quí hơn kẻ cúi đầu tuân phục Cộng Sản.” Sartre đã trở thành chứng liệu cụ thể cho lời phát biểu từ hơn 300 năm trước của William Penn về một chân lý không bao giờ thay đổi: “Lẽ phải luôn là lẽ phải ngay cả khi bị mọi người chống đối; lỗi lầm luôn là lỗi lầm ngay cả khi được mọi người tán trợ — Right is right, even if everyone is against it; and wrong is wrong, even if everyone is for it.”

Là người xa lạ và từng tôn sùng Cộng Sản, Sartre vẫn không thể dằn lòng trước gánh nặng oan khiên của người dân Việt Nam và phải công khai nhìn nhận nỗi nhục ngu si của bản thân mình.

Sartre hành động từ năm 1979 tức là tròn 30 năm trôi qua tính tới hôm nay.

Tại sao lại có tình trạng kéo dài nỗi đau xót như Tô Hải đã nhắc?

Tại sao chính những kẻ đã sống với cái chủ nghĩa nặng mùi xác chết ngay trên đất nước Việt Nam lại không thể thú nhận mình lạc lối dù ý thức rõ về sự lạc lối của mình?

Tô Hải gọi những trang viết của mình là hồi ký và ghi lại nhiều đoạn đời khởi từ 1945, nhưng nổi bật lên chỉ là nỗi dày vò trong tâm khảm của một người ý thức mình đi lạc mà không thể nào dừng bước. Dù viết về các lời lẽ gian trá hay hành vi tàn bạo của chế độ, dù viết về những kẻ ngu xuẩn tận cùng hay lưu manh ghê tởm, dù viết về toan tính của bản thân hay tâm tư của bè bạn, Tô Hải không bao giờ rời nổi nỗi đau đã thành cực hình vò xé tim óc. Đó là nỗi đau phải sống cuộc sống không còn là cuộc sống con người. Nỗi đau càng lớn hơn khi luôn phải gặp gỡ không ít kẻ mệnh danh trí thức vẫn vênh váo tự hào với cuộc sống đó.

Thực ra, những trang viết của Tô Hải và thực tế Việt Nam đã cho thấy không ít sự biểu lộ thái độ của nhiều người từng có tên trong giới sinh hoạt văn chương nghệ thuật…

Đó là những câu thơ viết lúc sắp giã từ cõi sống của những Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi:

Mậu Thân, 2000 người xuống đồng bằng

Chỉ một đêm, còn sống có 30

Ai chịu trách nhiệm về cái chết của 2000 người đó?

Tôi, tôi người viết những câu thơ cổ võ

Ca tụng người không tiếc mạng mình

trong mọi cuộc xung phong …

(Chế Lan Viên)

hoặc:

Tất cả người tôi còn nhiều bùn tanh

Mặt tôi nhuốm xanh, nhuốm đỏ

Tay tôi vương nhiều đồ bỏ

Nhiều dây nhợ tự buộc mình

Thôi! Xin tha cho mọi lỗi lầm

Quên cho những dối lừa khoác lác

Tôi biết tôi đã nhiều lần tàn ác

Và ngu dại còn nhiều lần hơn…

(Nguyễn Đình Thi)

Đó là những dòng chữ cũng viết vào lúc cuối đời của những Nguyễn Khải, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Minh Châu… hay các tác phẩm như Ba Người Khác của Tô Hoài, Ba Phút Sự Thật của Phùng Quán…

Dù luôn mong có thêm nhiều biểu hiện như thế ở mọi người, Tô Hải đã không ngần ngại cho rằng tất cả đều chưa xa nổi chữ HÈN. Bởi những thái độ đã biểu hiện hay những tác phẩm đã có chỉ gói tròn trong mục đích phân trần mình đã trải nhiều ray rứt, không hề thanh thản khi cúi đầu nhận phận tôi đòi. Điều này không còn cần thiết, tương tự sự tố giác hay kết án bản chất phi nhân của các chế độ Cộng Sản.


Thực tế đã nói quá rõ rằng bất kỳ ở nơi nào hiện diện chủ nghĩa Cộng Sản thì ở nơi đó sự sống bị huỷ hoại. Không còn cần phải chờ nghe phân giải của Lâm Ngữ Đường về hậu quả tất yếu của việc thay đổi các quy luật diễn hoá tự nhiên như Marx hô hào hay chờ nghe phân giải về tính phi lý của chủ trương đấu tranh giai cấp đặt con người vô sản thành mục tiêu phụng sự thay thế cho con người.

Thực tế đã khẳng định bằng những tai hoạ mà chủ nghĩa Cộng Sản mang lại cho con người khắp thế giới từ cuộc Cách Mạng Vô Sản 1917 tới nay. Cho nên tố giác Cộng Sản hay phân trần về lý do trở thành công cụ đều vô nghĩa. Thực tế đã làm xong việc đó và đang khẩn thiết kêu gọi hành động vượt thoát mọi di họa mà Cộng Sản đã gieo rắc để đưa cuộc sống trở lại đúng vị thế cuộc sống con người.

Thực tế cũng nói quá rõ về tình trạng bị lường gạt bi thảm của người dân Việt Nam suốt đoạn đường lịch sử mở ra từ mùa Thu 1945 để tới nay vẫn dãy dụa trong ngõ cụt. Một thiểu số giành được quyền lực còn cố giữ quyền lực bằng cách ôm chặt cái chủ thuyết nồng nặc mùi xác chết, và những người đang biện bạch về hành vi dối trá từng làm trong quá khứ vẫn chưa từ bỏ vai trò công cụ lường gạt của mình.

Một chọn lựa cần có chưa hề xẩy ra, một đáp ứng đúng mong mỏi vẫn gần như vắng bặt.


Khi ghi lại nỗi đau riêng của bản thân qua cuộc sống cá nhân nhỏ bé, Tô Hải đã góp thêm chứng tích vào cái kho thực tế đang kêu gào thức tỉnh về một thái độ từng có và vẫn đang có để vùi dập con người giữa vô vàn tai ách. Bởi thái độ mà những Bertrand Russel, những Jean Paul Sartre bày tỏ từ nửa thế kỷ trước đây –– và chính Sartre đã từ bỏ — vẫn phổ biến trên đất nước Việt Nam.

Mù quáng và hèn mạt do những động cơ cá nhân tiếp tục là thực tế duy trì nhịp đập của những con tim ác thú. Không còn là tiếng than của một cá nhân cho chỉ riêng bản thân khi những lời này được cất lên:

“Tinh hoa đất nước giờ đâu tá?

Ai cũng hèn như tôi sao?...

Ai sẽ đưa con thuyền Việt Nam khỏi con đường vô định này, nếu những người hèn vẫn không dám nhận là mình hèn, không kiên quyết giã từ cái ngu dại, không lên án những gì mà mình làm tưởng là “vinh quang rực sáng” lại chính là “tội lỗi ngút trời”, không biết khuyên nhủ con cái chớ có dẫm vào vết chân đầy máu và nước mắt mà mình đã đi qua…

Phải kiên quyết giã từ cái quá khứ đầy vinh quang vô ích của mình. Chỉ có sự giác ngộ chính trị cuối cùng này mới giải toả được mọi nỗi đau.

Sự “trở cờ”, “phản bội” để “đi tìm một sự trung thành mới” như Jean Paul Sartre nói không ai dám làm ư? Vì còn... sĩ diện! Vì còn bị quá khứ níu kéo?

Bỏ một thứ tà đạo, một niềm tin mù quáng, vứt vào sọt rác cái chiêu bài hoen rỉ, mốc meo, chẳng khác gì ly dị một con vợ độc ác, chẳng yêu gì mình khó lắm sao? Sao rất ít “thức giả” dám tuyên bố công khai: “Tôi từ bỏ chủ nghĩa cộng sản?” (HKCMTH – tr. 411)

Những lớp lớp cá nhân Tô Hải qua Hồi Ký Của Một Thằng Hèn dù có đáng thương mức nào, đáng tội nghiệp tới đâu thì cảm xúc xót thương, tội nghiệp dành cho họ sẽ hoàn toàn vô ích. Bởi nỗi đau mà Tô Hải gánh chịu không phải nỗi đau riêng của Tô Hải, không phải hậu quả chỉ đến với một cá nhân do những chọn lựa của bản thân mà chính là một nét thực tế biểu hiện cái thân phận oan khiên mà dân tộc Việt Nam đang gánh chịu. Thực tế này khiến nỗi đau tăng gấp ngàn vạn lần so với nỗi đau bị dập vùi, khi không thể chối cãi rằng cái thân phận oan khiên kia sở dĩ đã có chỉ do cái HÈN và NGU của nhiều thế hệ.


Diễn trình lịch sử từng cho thấy hàng loạt dân tộc lâm vào những đoạn đường trở thành nô lệ, bị buộc phải mang thân phận tôi đòi với cuộc sống súc vật để dấy lên nhiều cảm xúc xót thương, chia xẻ. Nhưng không vì thế mà bài bác nổi thái độ miệt thị những kẻ vì mưu cầu, ham muốn sẵn sàng quỳ gối trước bả lợi danh, sẵn sàng nói không thành có để giúp hoàn tất một ý đồ lường gạt, nhất là tự mãn về những thủ đoạt của bản thân bất kể do đó đã gieo tai rắc họa cho đồng loại.

Con người đáng được thương cảm khi thất thế cùng đường bị dồn vào cảnh sống tối tăm, nhưng phải bị nguyền rủa, coi khinh khi tự nguyện khoanh tay cúi đầu bước vào cảnh sống tối tăm đó. Cảm giác nhức nhối mà những dòng tự sỉ mạ của Tô Hải khơi lên nơi người đọc chính là cảm giác này khi đối chiếu với giai đoạn lịch sử mở ra cho đất nước Việt Nam từ giữa thế kỷ trước.

Cái NGU đã mở đường xâm nhập cho một tà thuyết trong khi cái HÈN đã giúp tà thuyết đó mặc tình thao túng và vẫn vạch đường chỉ lối buộc cả dân tộc phải noi theo đến giờ này. Thực tế không thể phủ nhận là không riêng cá nhân này hay cá nhân khác lâm cảnh trầm luân, tủi nhục mà là toàn thể dân tộc đã rơi vào một ngõ cụt thảm thương do cái lỗi lầm HÈN, NGU mà nhiều thế hệ đã mắc.

Cho nên thay vì bày tỏ cảm giác tội nghiệp xót thương cho cá nhân này hay cá nhân khác, cần nhìn thẳng vào nỗi nhục tự biến mình thành công cụ tôi đòi, nỗi nhục vận dụng tới tận cùng khả năng trí óc để ngụy biện cho sự tình nguyện khom lưng uốn gối là thức thời — theo kiểu Nguyễn Tuân với câu nói từng được lập lại “phải biết sợ để tồn tại.”


Vì bất kể lý do nào, việc tránh né nhìn thẳng vào các nỗi nhục này chỉ kéo dài thêm thời gian giam hãm đất nước trong ngõ cụt để sẽ biến nhiều thế hệ tiếp nối thành những đàn lũ súc vật. Bởi hiểm hoạ chôn vùi cuộc sống lúc nào cũng đầy rẫy nhưng nặng nề hơn hết luôn là động lực NGU, HÈN sẵn có nơi mỗi con người. Tấn thảm kịch diệt chủng Campuchia thời gian 1975-1979 chính là lời khẳng định về tác hại kinh hoàng của các động lực này. Cái tên Pol Pot tới nay luôn gợi sự ghê tởm, nhưng vẫn phải công bằng nhìn nhận ý hướng phụng sự xã hội của Saloth Sar khi còn là một sinh viên trường EFR — École Francaise de Radioélectricité — tại Paris thuở 1949-1953. Thiếu ý hướng này, Saloth Sar sẽ không gia nhập đảng Cộng Sản Pháp, không thể nghĩ đến giai cấp đấu tranh và mơ tưởng về một xã hội cộng sản trong sáng, coi hết thẩy người sống tại thành thị đều là kẻ thù cần tiêu diệt theo chủ trương đã công khai phổ biến là chỉ cần giữ lại một phần ba dân số. Vì thế năm 1975, khi đổi tên thành Pol Pot và nắm chính quyền, Saloth Sar đã tức khắc tiến hành cuộc diệt chủng tàn khốc với đối tượng không chỉ là thị dân mà là mọi giới tu sĩ, trí thức… Tiêu chuẩn trở thành tử tội đơn giản tới mức ngoài tính thành phần xã hội, chỉ cần đeo kiếng hoặc có bệnh là đủ để đem ra rút lưỡi hoặc dùng búa đập vỡ sọ, bất kể già nua hay trẻ nít.

Theo Pol Pot, đời sống chỉ tốt lành khi con người tham gia sản xuất nên kẻ bệnh hoạn, tật nguyền hoặc bất thường như mắt phải nhờ kiếng mới nhìn rõ… đều thiếu điều kiện tham gia sản xuất nên là thứ ký sinh cần loại trừ. Hai triệu mạng sống đã bị huỷ hoại do cái chủ trương man rợ điên cuồng này và không thể nói khác về nguồn gốc của nó ngoài động lực NGU và HÈN. Ngu tối đã khiến lao đầu xuống đáy vực mà vẫn tự hào đang nhàn tản dạo mát giữa đồng xanh, trong khi rũ liệt dưới sức khống chế của hèn mạt thì không thể đón chờ tương lai nào khác ngoài sự tự biến thành con mồi cho mọi dã tâm xâu xé.

Con đường ngu tối mà Pol Pot mở ra trên đất Campuchia chính là con đường đã mở ra cho đất nước Việt Nam từ giữa thế kỷ trước, và tình trạng rũ liệt trong vòng vây hèn mạt không còn là điều ngờ vực. Chủ trương xây dựng “Xã Hội Cộng Sản Nông Thôn Trong Sáng” chỉ là sự lập lại những chủ trương Cải Cách Ruộng Đất, Cải Tạo Thương Nghiệp và nhiều chủ trương khác của Việt Nam với điểm khác biệt duy nhất là không cần che đậy bằng hình thức pháp luật vô pháp luật. Số nạn nhân bị cướp đoạt mạng sống tại Việt Nam nếu tính từ năm 1945 chắc chắn gấp bốn, năm lần số nạn nhân tại Campuchia. Giữa hai vùng đất đau thương này chỉ Campuchia có thể đang khởi đầu trở lại đoạn đường phục hồi sự sống còn Việt Nam vẫn nằm trong ngõ cụt giữa những bức tường NGU – HÈN sừng sững khắp nơi.

*

Những trang cuối hồi ký của Tô Hải kể lại chọn lựa cuối cùng của hoạ sĩ Dương Bích Liên năm 1988.

Dương Bích Liên quyết định rời khỏi đảng Cộng Sản mà ông tham gia từ 40 năm trước, rồi đốt tất cả tác phẩm và tuyệt thực cho đến chết. Bên cạnh xác của ông chỉ còn duy nhất một bức chân dung tự họa chưa hoàn tất với cái tên Ngõ Cụt.

Chọn lựa của Dương Bích Liên là chọn lựa của hàng loạt người Nga vào thời điểm 1991-1992, sau khi chế độ Cộng Sản Nga sụp đổ từng được nữ ký giả Svetlana Alexievitch ghi lại trong tác phẩm Ensorcelés par la mort. Chứng tích từ những người tự tử sưu tập được cho thấy tất cả đều không chịu đựng nổi nỗi dằn vặt đã vì ngu hèn tự biến thành công cụ bị lường gạt, bị sai phái và bị hành hạ. Một sinh viên vừa hoàn thành bản luận án tiến sĩ về chủ nghĩa Marx đã lao khỏi cửa sổ từ tầng lầu 11. Bản luận án còn lưu lại cho thấy mỗi trang đều bị gạch chéo với những chữ lớn viết bằng mực đỏ: Lừa gạt, khoác lác, xảo trá…

Tuy cùng chọn cái chết nhưng nỗi đau của những người này không nặng nề như nỗi đau của Dương Bích Liên. Bởi Dương Bích Liên không chỉ đối diện riêng với cảm giác hổ nhục vì ngu hèn của bản thân mà còn đối diện với tương lai mù mịt của đất nước. Anh sinh viên Ivan Ivachovest có thể hoàn toàn thanh thản khi phóng qua khung cửa sổ tầng lầu 11 vì cái thời của những lời lẽ lường gạt trên đất nước Nga đang lùi vào dĩ vãng và cái chết chắc chắn sẽ chấm dứt nỗi hổ nhục vì ngu hèn của bản thân anh. Với Dương Bích Liên, suốt thời gian dài dặc hành hạ thân xác bằng quyết định tuyệt thực vẫn phải từng giây đối mặt với cảm giác tuyệt vọng vì cảnh ngộ đất nước nằm trong ngõ cụt. Cảm giác này không hề thay đổi hay giảm sút cho đến khi trút hơi thở cuối cùng vì vây quanh vẫn là những bức vách Ngu Hèn cao ngất. Đến lúc này những bức vách vẫn hiển hiện để thúc đẩy tâm trạng dày vò tự sỉ mạ, tự lăng nhục chua xót “cái Hèn vẫn bao trùm nhiều khía cạnh, nhiều trang đời, nhiều suy nghĩ của tôi…” — như Tô Hải đã ghi lại.


Tự nhiên, tôi bỗng nhớ tới khung cảnh kinh thành La Mã bốc cháy trong tác phẩm Quo Vadis của Henryk Sienkiewicz và thấy những trùng hợp kỳ lạ với hiện trạng Việt Nam.

Giữa thập niên 60 của thế kỷ công nguyên đầu tiên ấy, những người nghèo khó La Mã hướng về ngọn đuốc sáng Yêu Thương đã bị nhìn như kẻ tử thù bởi triều đình của một bạo chúa.

Gần như không có cách biệt khi so sánh thân phận những người nghèo khó ấy với 80 triệu con dân Việt Nam hiện nay. Cũng tương tự, nếu so sánh tập đoàn lãnh đạo Việt Nam với triều đình Neron thuở đó.

Neron luôn ngùn ngụt tham vọng biến mình thành kẻ vĩ đại bậc nhất trên mặt địa cầu tới mức thản nhiên hạ sát cả vợ, cả mẹ để giảm bớt cản trở trong nếp sống xa hoa tàn bạo. Con người phi nhân tới mức đó lại được một đám cận thần tung hô, tôn xưng như thần thánh và sẵn sàng tuân theo mọi lệnh chỉ. Vì thế, khi Neron muốn tìm cảm hứng nhìn lửa cháy để tạo một tác phẩm nghệ thuật mà y tin sẽ vượt xa các tác phẩm lẫy lừng Illiade và Odyssée, đám cận thần đã dâng sáng kiến hoả thiêu La Mã. Toàn bộ kinh thành bốc cháy khơi dậy sự giận dữ trong quần chúng, sự giận dữ mà Neron và đám cận thần không ngờ tới. Kế sách đối phó được đề ra là lập tức rao truyền chính đám người nghèo khó theo chúa Jesus đã nổi lửa và cái triều đình ác thú ấy ban lệnh “ném ngay lũ Thiên Chúa Giáo cho sư tử.”

Cơn uất hận vì cơ ngơi bị huỷ hoại, người thân bị chết thảm đã khiến từng đám đông cuồng nộ trở thành hung thú lao vào tàn sát những kẻ cũng là nạn nhân như mình theo lệnh truyền của chính các thủ phạm gây tội ác. Đây đúng là cảnh đã kéo dài trên đất nước Việt Nam từ 1945 qua mọi biến cố do chỉ hai động lực Ngu – Hèn. Cái Ngu đã khiến nhiều thế hệ lao vào xâu xé lẫn nhau bởi không nhận chân nổi thủ đoạn lường gạt của một bạo chúa, đồng thời cái Hèn đã liên tục tạo thêm sức mạnh cho bạo chúa mặc tình thao túng. Ai cũng dễ dàng nhận thấy nếu không có những Tigellinus và đội ngự lâm quân, không có những Chilon Chilonides … thì dù Neron có ba đầu sáu tay cũng không thể gieo tai rắc hoạ, không thể chỉ một giây phút phù du thiêu hủy cả một kinh thành…

Khác biệt giữa hai thảm cảnh La Mã thuở nào và Việt Nam hiện nay là La Mã có sự hiện diện của thằng hèn Chilon Chilonides. Thằng hèn Chilon đã nhúng tay vào đủ thứ nhơ nhuốc, bạo ngược để được trở thành cận thần của bạo chúa. Thằng hèn Chilon cũng là kẻ đi ban bố lệnh truyền “ném bọn Thiên Chúa Giáo cho sư tử”. Nhưng, chính thằng hèn Chilon đã đứng thẳng, vươn tay chỉ vào giữa mặt Neron, cáo giác kẻ chủ mưu đích thực vụ đốt phá kinh thành là ai.

Một thời tôi đã bị cuốn hút tới mức đọc đi đọc lại nhiều lần hai chương Quo Vadis nói về giây phút cuối cùng của thằng hèn Chilon Chilonides — một chương chấm dứt với sự thản nhiên trước cực hình rút lưỡi để được đứng bên đám người nghèo khó vẫn giữ vững nhịp con tim chan chứa tình người và một chương chấm dứt với nụ cười mãn nguyện cùng những dòng nước mắt đón nhận niềm vui của nạn nhân vào giây phút lìa đời.

Nhưng vượt lên trên hết vẫn là hình ảnh thằng hèn Chilon đứng thẳng, vươn tay chỉ vào giữa mặt bạo chúa, hình ảnh ghi lại bước khởi đầu sự cáo chung của một triều đại man rợ ghê tởm để những con tim của đám người nghèo khó La Mã đang bị treo trên thập tự giá, bị quăng vào móng vuốt ác thú, bị moi gan rút lưỡi… tiếp tục gửi tình Yêu Thương tới khắp năm châu.

Ý nghĩ cuối cùng dấy lên từ những trang “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn” lại là sự trở về với một thằng hèn trong hình ảnh một ước mơ.

Mong sao sớm xuất hiện tại Việt Nam những thằng hèn Chilon Chilonides!

Virginia, March 09, 2009

* UYÊN THAO

NHẠC SĨ TÔ HẢI VÀ TÁC PHẨM: “HỒI KÝ CỦA MỘT THẰNG HÈN”

Tập Hồi Ký này tôi viết xong từ năm 2000, nhưng do... hèn, tôi đã không dám cho nó ra mắt bạn đọc. Vâng, do... hèn, chứ chẳng phải do cái gì khác, tôi đã giấu nó đi, lại còn cẩn thận ghi thêm một dòng ở ngoài bìa “Để xuất bản vào năm 2010”. Như một lời di chúc dặn vợ con, khi tôi đã... chết! Tới năm 2003, mang bản thảo ra đọc lại, thấy ngòi bút của mình sao vẫn rụt rè, vẫn lấp lửng mới biết mình vẫn chưa hết sợ sức mạnh tàn bạo của nền “chuyên chính vô sản” mà mình từng nếm trải.
NHẠC SĨ TÔ HẢI VÀ TÁC PHẨM
“HỒI KÝ CỦA MỘT THẰNG HÈN”
__________________________________
VÌ SAO TÔI VIẾT HỒI KÝ?
˜ TÔ HẢI
K
hi bắt tay vào viết hồi ký, ấy là lúc mọi khát vọng sáng tạo đã cạn, mọi ham mê, hoài bão đã tắt, và thần chết đã cầm lưỡi hái hiện trước cửa sổ... ”
Câu mở đầu đó, nếu tôi không nhầm, là của George Sand mà tôi đã đọc, đã thương cảm và đã tự nhủ rằng rồi đây chính mình cũng sẽ phải để lại cho đời ít dòng nói thật khi bước vào tuổi 70, nếu như cái chết lãng nhách không đến bất chợt!
Biết đâu đấy, rồi đây lịch sử sẽ có thêm được một số chi tiết trong “tội ác diệt văn hóa” của nhà cầm quyền Việt Nam trong một thời gian dài trên nửa thế kỷ nhờ những chứng liệu được ghi trong hồi ký của một kẻ từng làm thứ văn nghệ gọi là “vì Đảng vì dân” trong suốt đời mình.
Hãy nhìn lại lịch sử văn học nghệ thuật ở miền Bắc Việt Nam mà xem.
Một lỗ hổng lớn!
Đúng vậy! Hậu thế sẽ thắc mắc: làm sao mà từ năm 1945 đến đầu thế kỷ 21, nhân tài đất Việt ở miền Bắc Việt Nam —một thứ Đàng Ngoài của lịch sử lặp lại — ít ỏi đến thế?
Tác phẩm của họ đâu rồi, ngoài lèo tèo mấy bài thơ của Hữu Loan, Trần Dần, Phùng Quán...và chẳng có một tiểu thuyết, một đoạn văn nào đáng được trích giảng trong các trường từ tiểu, trung đến đại học? Vậy mà suốt thời kỳ đất nước nằm dưới “sự lãnh đạo vô cùng sáng suốt” và “duy nhất đúng đắn” của những tên “xuất thân thành phần cơ bản”, trình độ học thức ở mức “đánh vần được chữ quốc ngữ”, các văn nghệ sĩ công chức ở nơi này vẫn được nhà cầm quyền trao tặng “Giải thưởng Nhà Nước”, “Giải thưởng Hồ Chí Minh” và đủ thứ bằng khen giấy khen, được trang trọng lồng kính treo kín những bức tường phòng khách!
Thử hỏi những tác phẩm được khen nức khen nở ấy giờ ra sao?
Té ra tất cả đã bị lịch sử xếp xó.
Hơn thế nữa, những tác giả được Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa khen hàng loạt nọ, trong thực tế, còn là những kẻ bán rẻ lương tâm đã lợi dụng các loại hình văn nghệ để ca ngợi những điều bất nhân, bất nghĩa bị cả nhân loại phỉ nhổ: khuyến khích con đấu cha, vợ tố chồng; hô hào kích động người cùng một nước chém giết lẫn nhau; ra sức ngợi ca những tên sát nhân khét tiếng như Stalin, Mao Trạch Đông… thậm chí, còn quỳ gối khấu đầu tạ ơn những tên đao phủ và cái tổ chức tội ác là “Đảng đã cho ta một mùa xuân”, dạy những đứa trẻ bập bẹ biết nói: “tiếng đầu lòng con gọi Stalin!” Nhục nhã thay cho những kẻ cam tâm bợ đít, luồn trôn kẻ giết cha mình! Cho tới cuối thế kỷ 20 vẫn còn những kẻ u mê cứ tưởng các “tác phẩm” tuyên truyền cho cuộc chiến huynh đệ tương tàn, cho hận thù dân tộc, cho đấu tranh giai cấp của chúng là giá trị lắm! Cứ xem chúng tâng bốc nhau, nịnh bợ nhau, bôi xấu nhau, kiện cáo nhau, để được nhận cái… vết nhơ một thời làm lính văn nghệ của Đảng thì thấy.
Không thể nín nhịn mãi, nhân dịp người ta tổ chức mừng sinh nhật 70 tuổi của tôi để ghi công những năm làm nô bộc của tôi, tôi đã công khai phủ nhận tuốt tuột những gì tôi gọi là “tranh cổ động bằng âm thanh” trên Tivi Sài Gòn. Tôi kiên quyết không cho phát lại những gì tôi được nhà cầm quyền ngợi khen suốt quá trình sáng tác. Để nhắc đến những tác phẩm của tôi, tôi chỉ đồng ý lên một chương trình do chính tôi soạn thảo và đặt tên. Nó gồm những tiếng nói của trái tim bị cấm đoán, bị lên án, thậm chí bị trù dập suốt nửa thế kỷ.
Sau hết, dựa vào thời cơ “Đổi Mới”, nhờ những bạn bè đồng tình với tôi và còn giữ được một số quyền hành cuối cùng trước khi về hưu, chương trình Nửa Trái Tim Tôi của Tô Hải đã ra mắt trọn một tiếng đồng hồ với toàn những “tác phẩm bỏ tủ lạnh”, với những lời tuyên bố gây “sốc” mạnh trong giới làm nhạc ăn lương.
Những đồng nghiệp thực sự có tài và có tâm sự giống tôi thì hài lòng. Số này, khi trả lời phỏng vấn, cũng chỉ dám nhận một cách khiêm tốn con số ít ỏi những gì mình làm ra xứng đáng được gọi là tác phẩm.
Còn số khác, những “nhạc sĩ” bám chặt thành tích 500, 1000 bài hát ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác, động viên con em ra chiến trường hiện còn tiếp tục lải nhải kể công với Đảng để xin “tí tiền còm” nhân danh giải này giải nọ thì tự ái, nổi khùng, gọi tôi là “tên phản động”.
Trả lời những câu hỏi của báo chí hoặc truyền thanh truyền hình, tôi luôn nhắc lại nguyên lý bất diệt của nghệ thuật: “Chỉ những gì từ trái tim mới đến được trái tim”! Nhưng trái tim của tôi, hỡi ôi, gần một thế kỷ qua lại không đập vì...tôi! Nó bị trói buộc, bị cưỡng bức phải đập vì những cái xa lạ với tôi: vì Đảng, vì hai cuộc chiến, vì những tín điều nhập khẩu từ các nước cộng sản Nga, Tầu.
May thay, thời thế rồi cũng đổi thay.
Liên Xô, “quê hương của cách mạng vô sản toàn thế giới”, “ngọn đuốc soi đường cho nhân loại” sụp đổ cái rụp. Thần tượng Marx, Lénine, Stalin gần 70 năm được tôn thờ hơn cả Chúa Trời bị đập tan!
Đọc hồi ký, di bút của các văn nghệ sĩ vĩ đại của mọi thời đại như Beethoven, Modigliani, Rubinstein, Stravinsky, Litz... hay của các nhà chính trị như De Gaulle, Khrutchev, Nixon ... càng thấy cái cao thượng của họ bao nhiêu càng thấy cái bẩn thỉu, thấp hèn của các nhà “chính chọe” (politicaillerie) bấy nhiêu.
Biết bao tên tuổi lớn đã chịu sự hắt hủi, lên án, thậm chí săn đuổi, cách ly của một thể chế, của tập đoàn nắm quyền lực, kể cả bị lên án là “phản bội” đã để lại cho chúng ta các tác phẩm ghi lại những gì họ suy ngẫm qua những trải nghiệm trong cuộc đời, những buồn đau, khổ cực, những chịu đựng ghê gớm cả về vật chất lẫn tinh thần để tồn tại, để tìm tòi và sáng tạo.
Trong khi đó, hồi ký của các “lãnh tụ cách mạng” chỉ là những cuốn sách viết ra cốt tự đề cao mình một lần cuối, để giải thích (chống chế thì đúng hơn) cho những hành động sai lầm, đổ tội cho người khác về những thất bại mang tính lịch sử mà kẻ viết hồi ký chính là tội phạm. Vậy thì, tôi, Tô Hải, một cái tên được nhiều người biết ở cái thời “âm nhạc phục vụ công nông binh”, ở cái thời mà âm nhạc, nếu không làm đúng yêu cầu của Đảng sẽ lập tức bị bọn “quan văn nghệ” lên án là “mất lập trường”, là “cá nhân tiểu tư sản”, thậm chí là “âm nhạc phản động”, có gì để mà hồi với ký?
Bánh xe lịch sử quay với tốc độ kinh hoàng đã cuốn phăng những “tác phẩm”, và cả những tác giả của chúng từng đoạt giải thưởng này huân chương nọ — lại than ôi, có cả tôi trong đó!
Lẽ công bằng chậm chạp cho đến nay đã phục hồi một cách rụt rè (không cần một quyết định hành chính nào hết) những tác phẩm và những tác giả một thời bị đoạ đầy, bị cấm đoán. Cuộc Đổi Mới — thực tế là trở lại như cũ — với các quan niệm về cái đẹp đã cho những “tên tuổi lớn” một thời trong mọi lãnh vực quân sự, chính trị, văn học, nghệ thuật những cái tát tỉnh người!
Trong “cơn đau cuối đời”, một số cựu uỷ viên trung ương đảng không còn chỗ ngồi ghé trong các ban chấp hành mới, mấy ông tướng bị cho ra rìa, ngồi chơi xơi nước hoặc bị khai trừ khỏi đảng vì bất tuân thượng lệnh, đã tỉnh ngộ. Kinh nghiệm một đời theo Đảng đã cho họ cái để viết nên những trang “sám hối” có phần nào giá trị. Họ phải trả giá cho sự dám nhìn lại cuộc đời bằng con mắt khách quan và tỉnh táo bằng sự trừng trị tương đối nhẹ nhàng so với người đối kháng khác: bị giam lỏng tại nhà, bị cắt điện thoại, tịch thu computer...
Trong khi đó — tôi xin nhắc lại — mấy anh văn nghệ sĩ mơ ngủ vẫn xúm đen xúm đỏ chen lấn nhau để giành bằng được mấy cái giải thưởng cho những tác phẩm mà con cháu ngày nay chẳng còn coi là cái giống gì. Ấy là chưa kể những kẻ chẳng bao giờ góp mặt trong nền văn nghệ, kể cả văn nghệ “phục vụ cách mạng”, nhân dịp này dịp khác cũng được nhà nước vô sản hào phóng ban thưởng về “sáng tác”!
Một bức tranh cười ra nước mắt.
Riêng tôi, khi chẳng còn lao động nghệ thuật được nữa (đúng hơn là không còn muốn lao động nghệ thuật nữa) bỗng dưng lại được cái Nhà Nước công nông binh tặng cho cái “Huân Chương Lao Động Hạng Nhất”.
Và khi không còn sáng tác nữa (đúng ra là không muốn sáng tác nữa) lại được người ta treo lên cổ cái mề-đay “Giải thưởng Nhà Nước”! Sướng chưa?
Tội nghiệp cho mấy anh Văn Chung, Nguyễn Đình Phúc, Lê Yên, Vũ Trọng Hối, Trần Ngọc Xương... chẳng còn sống ở trên đời để mà hưởng cái “Giải thưởng Nhà Nước” nọ. Nói thêm chút cho vui: Cái giải thưởng này quy ra tiền cũng được gần bằng một phần mười giải thưởng tặng cho hoa hậu đấy. Mà để làm hoa hậu thì cần quái gì phải có học.
Bi kịch hay hài kịch đây?
Dù sao cái giải thưởng đáng giá hai năm lương hưu của tôi cũng là món tiền thêm vào cho hai năm tôi ngồi viết những trang tiếc nuối cuộc đời mà các bạn đang cầm trong tay. Không có nó tôi đành ôm cả núi ân hận mà về với đất. Vì không có nó thì lấy gì ăn để mà viết? Cho nên tôi cũng thấy cần ghi lại ở đây “lời tri ân” đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam đã tạo điều kiện cho tôi viết nên những dòng hồi ký này.
Thế là, với sức tàn còn lại, tôi bắt đầu...
Những hình ảnh đầu tiên đến với tôi rõ nét nhất chính là những thời gian, không gian, sự kiện và những con người đã mang lại cho tôi những cảm xúc, những niềm vui và nỗi buồn.
Trong đầu tôi tràn ngập hồi ức đòi được thoát ra.
Vì thế trong khi viết, tôi luôn phải cố gắng sao cho khỏi lạc “chủ đề tư tưởng” (cách nói méo mó trong ngôn từ văn nghệ cộng sản). Và trước hết, tôi phải đè bẹp được sự “hèn nhát” trong tôi là cái đã bén rễ sâu chặt do thời gian quá dài sống trong lồng kín, cách ly bầu trời tự do.
Tôi sẽ viết để bạn bè, con cháu hiểu và thông cảm nỗi đau của những người cả cuộc đời phải sống và làm việc với cái đầu và trái tim của tên nô lệ.
Tôi tình nguyện làm một trong những người vạch trần những bộ mặt chính trị dỏm, văn nghệ dỏm, những tên cơ hội, đã cản trở, giết chết tác phẩm, đẩy những tài năng vào hố sâu quên lãng.
Đáng buồn là những chuyện được giấu kín đó, tôi đều được biết, thậm chí còn được tham dự các kế hoạch hại người (được gọi là kiểm điểm, học tập, thu hoạch... ) ngay từ khi chúng mới được phác hoạ, trong suốt quá trình tôi ở cương vị cấp uỷ, lãnh đạo chỉ đạo nghệ thuật.
Để bảo vệ chỗ đứng của mình, tôi đã không dám cãi lại những lời chửi rủa bố tôi là đồ “phản động”, mẹ tôi là “Việt gian”, họ hàng nhà tôi là “tay sai đế quốc”!
Vậy thì làm sao tôi dám bảo vệ cho một Đoàn Phú Tứ là không phản bội, một Phạm Duy là không phải “dinh tê” chỉ vì không chịu được gian khổ”?
Tôi đã chọn con đường cúi đầu nín lặng mặc dù tôi biết rõ nguyên nhân vì sao ông cậu Đoàn Phú Tứ của tôi phải về Thành, biết rõ không ai không sợ chết mà lại dám một mình vác đàn, nhịn đói vượt U Bò, Ba Rền vào chiến trường Bình Trị Thiên ác liệt nhất để viết nên Bà Mẹ Gio Linh, Về Miền Trung như Phạm Duy. Tôi đã là thế đấy. Những âm mưu hạ tiện đó, tôi không phải không biết. Trái lại, tôi hiểu ra ngay từ lúc chúng mới được bàn bạc trong “nội bộ”. Lòng tôi chống lại thủ đoạn hại người, nhưng miệng tôi lại không dám nói ra.
Nỗi bất bình bị dồn nén ám ảnh tôi suốt mấy chục năm trời. Dần dà, nó biến tôi thành một núi mâu thuẫn. Mặc dầu tôi tự nguyện dồn nén, miệng núi lửa kia thỉnh thoảng lại bục ra. Những phản ứng không kìm được xảy ra ngày một nhiều và được các công bộc mẫn cán của Đảng ghi lại bằng giấy trắng mực đen trong lý lịch đảng viên của tôi, kèm theo nhận xét “không có ý thức bảo vệ Đảng”, “hay phát ngôn vô trách nhiệm”. Tôi mang tội “không có ý thức bảo vệ Đảng” chẳng qua vì tôi không chịu bảo vệ Đảng và những đảng viên có chức có quyền làm những điều sai trái.
Ngay cả với trưởng ban Tổ Chức Trung Ương Lê Đức Thọ ( ) quyền sinh quyền sát là thế mà tôi cũng có lần nói thẳng mặt: “Tại sao khi những người nhân danh Đảng làm bậy, chúng tôi phê phán họ thì lại bị ghép vào tội chống Đảng, chống chủ nghĩa cộng sản? Tại sao lẽ phải bao giờ cũng thuộc về họ, mặc dầu họ không có một xu kiến thức để đối thoại với chúng tôi?”
Đó là một trong những “cú liều” đem lại cho tôi nhiều thiệt thòi, cay đắng. Với những “cú liều” này, bạn bè bảo: “Tô Hải là thằng “có bản lãnh”. Những người cùng nghĩ như tôi nhưng biết giữ mồm giữ miệng thì khoái lắm, vì đã có Tô Hải nói thay! Số còn chức còn quyền nhưng không đến nỗi tồi tệ quá thì cố tìm cách “hãm phanh” tôi lại để các “anh trên” đỡ vì đau đầu mà phạng lung tung. Còn tôi, ở cái tuổi ngoài 70, chẳng còn gì để mất, lại được sự cổ vũ của số lớn bạn bè, tôi cứ “nổ” khi có điều kiện.
Cũng có người cho rằng tôi “dại” có cỡ, có kẻ nhắc là “cẩn thận kẻo vào tù!” Nhưng tôi đã quyết: 55 năm miệng bị lắp khoá kéo, nay đã già, đã về hưu, có chia xẻ với bạn đọc những hồi ức của đời mình thì cũng chẳng còn phải e ngại các lời ong tiếng ve rằng mình vì tư lợi, muốn kiếm chác cái gì.
Còn về Đảng ư? Tôi đã cóc cần nó từ khuya rồi và hết sức vinh dự được trở lại hàng ngũ nhân dân đang bị một nhóm người bắt sống cuộc sống trại lính, ăn gì, mặc gì, xem gì, đọc gì, thậm chí chết kiểu gì cũng đều do họ quy định và cho phép!
Tôi đã nói và sẽ nói, nói tất, nói với bạn bè, với người thân, với con cháu, chắt, chút, chít những gì mà bộ não ông già 70 còn ghi nhớ được về cái thời tưởng mình là một cánh đại bàng bay bổng giữa trời.
Nhưng, than ôi! Gần hết cuộc đời, tôi vẫn chỉ là “con đại bàng... cánh cụt”, chạy lè tè trên mặt đất mà vẫn vấp ngã đến gãy mỏ, trụi lông.
Hi vọng rằng sau khi đọc hồi ký này người đọc sẽ thương cảm cho tôi, cho các bạn tôi, những người ngây thơ, tội nghiệp, cả cuộc đời bị lừa dối và đi dối lừa người khác một cách vô ý thức.
Biết đâu chẳng có ngày đất nước này hoàn toàn “đổi mới” thật sự, hồi ký này sẽ được in ra để làm tài liệu lưu trữ về một thời cay đắng và tủi nhục nhất trong lịch sử Việt Nam. Và, may ra, lạy trời, những “đại bàng cánh cụt” chúng tôi sẽ được nhắc tới, như những chứng nhân lịch sử.
Nhưng, “vừa là tội đồ vừa là tòng phạm” làm sao những con đại bàng cánh cụt kia có thể bay cao, bay xa? Thôi thì xin làm con sói của Alfred de Vigny, con bói cá của Musset tru lên tiếng rú cuối cùng, phanh ngực, xé lòng, hiến cho lịch sử một mẩu trái tim, một mẩu trí óc, một chút hơi tàn của thân xác.
Với niềm tin vô bờ bến rằng ngày tàn của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam đã đến rất gần, dù có chậm hơn ở các nước bậc cha ông, anh cả, anh hai đến vài ba thập kỷ, niềm tin ấy vẫn cháy bỏng trong tôi thúc giục tôi vứt bỏ mọi sợ hãi, mọi hèn kém để ngồi vào computer.
Tôi bắt đầu...
ĐÔI ĐIỀU PHI LỘ VIẾT... SAU CÙNG
Tập Hồi Ký này tôi viết xong từ năm 2000, nhưng do... hèn, tôi đã không dám cho nó ra mắt bạn đọc. Vâng, do... hèn, chứ chẳng phải do cái gì khác, tôi đã giấu nó đi, lại còn cẩn thận ghi thêm một dòng ở ngoài bìa “Để xuất bản vào năm 2010”.
Như một lời di chúc dặn vợ con, khi tôi đã... chết!
Tới năm 2003, mang bản thảo ra đọc lại, thấy ngòi bút của mình sao vẫn rụt rè, vẫn lấp lửng mới biết mình vẫn chưa hết sợ sức mạnh tàn bạo của nền “chuyên chính vô sản” mà mình từng nếm trải. Nhất là sợ rồi đây vợ con mình phải chịu đựng những đòn thù bẩn thỉu của bầy dã thú đội lốt người, nếu chẳng may những gì mình viết ra rơi vào tay chúng.
Tôi thấy cần phải sửa lại cuốn sách — từ cách viết, từ cái nhìn chưa đủ tinh tường về những sự kiện lịch sử — và viết thêm về những con người cần được nhắc tới, mỗi người là một mảnh gương nhỏ, nhưng gộp lại người đọc có thể thấy hình ảnh một thời đại.
Và tôi viết thêm chương TÔI ĐÃ HẾT HÈN!
Nhưng đã đến chưa, cái thời cơ có thể đưa cuốn sách mà tôi ấp ủ bấy lâu ra trình diện người đọc? Vẫn chưa phải lúc chăng? Ngẫm ra, tuy viết là “Tôi đã hết hèn”, nhưng trong thực tế cái hèn vẫn còn đó, nó vẫn bám chằng chằng, như một bộ phận của cơ thể, cái sự mình khẳng định với mình rằng đã hết hèn mới chỉ là sự mạnh dạn với bản thân khi cầm bút mà thôi! Còn đấu tranh trực diện với cái sức mạnh tăm tối đang cai trị đất nước, kìm hãm sự phát triển của cả một dân tộc là chuyện khác, không phải là điều ai cũng dám làm!
Đặc biệt, ba bốn năm gần đây tôi may mắn có điều kiện làm quen với Internet, nhờ đó được tiếp cận với rất nhiều người mà tôi vô cùng cảm phục. Dù đang sống ở trong nước, họ không hề sợ hãi trước đàn áp, ngục tù. Đó là những Hoàng Minh Chính, Trần Độ, Lê Hồng Hà, Hà Sĩ Phu. Bùi Minh Quốc. Đó là những Hoàng Tiến, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Thanh Giang, Vũ Cao Quận... Đó là những nhà sư, những linh mục thà chết không chịu đứng chung hàng với lũ tu sĩ “quốc doanh”, và nhiều, rất nhiều người khác nữa!
Cũng không thể không nói đến ảnh hưởng của hàng chục website cổ võ dân chủ trên khắp thế giới, cũng như những gì bạn bè tôi, đồng đội, “đồng chí” cũ của tôi như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên phải bỏ nước, bỏ cả vợ con ra đi để được viết lên Sự Thật, mở mắt cho bao người còn đang sống hèn như tôi.
Không có những cái đó thì nhân dân còn tiếp tục bị lừa dối bởi lũ bồi bút cho đến nay vẫn ra rả ca tụng một chủ nghĩa đã lỗi thời với cả nhân loại.
Tôi cũng mong sao mỗi người trong số các văn nghệ sĩ sắp giã từ cõi đời nhầy nhụa này hãy để lại một “bản di chúc” nói lên Sự Thật, dù chỉ là 1/1000 Sự Thật, để tạ tội với đồng bào, về những gì mình đã vì miếng cơm manh áo, vì yếu hèn mà phải cúi đầu làm thân trâu ngựa. Được như Ba Người Khác của Tô Hoài cũng đã là tốt, làm được thế thì người viết cũng có thể được nhân dân “xá tội” cho phần nào.
Người đọc đang chờ xem “di cảo” của một Chế Lan Viên, một Nguyễn Đình Thi — hai nhân vật đứng đầu bầy nô lệ cầm bút. Đáng ngạc nhiên là theo Nguyễn Đình Chính (con trai Nguyễn Đình Thi) thì cuốn hồi ký của Nguyễn Đình Thi sẽ chỉ được phép công bố vào năm... 2014?!
Sao lại lâu đến thế? Nguyễn Đình Chính vẫn còn sợ, còn tính toán thiệt hơn, còn bắt linh hồn người cha ở thế giới bên kia tiếp tục đóng kịch mãi sao? Hay chính tác giả cuốn hồi ký doạ sẽ in năm 2014 vẫn còn chưa tin là chủ nghĩa cộng sản đã đến ngày tuyệt diệt?
Tôi sẽ phải đưa vào chương sẽ viết những nhận thức mới, tình cảm mới, những sự kiện bổ sung dưới ánh sáng mới, một chương gần như tóm tắt tất cả những gì tôi đã viết vào lúc chưa có được sự tiếp xúc và tiếp sức của phong trào đòi tự do, dân chủ, đòi quyền con người đang ào ào dâng lên mỗi giờ, mỗi ngày trong cái xã hội độc tài đảng trị đáng nguyền rủa.
Viết xong chương bổ sung cần thiết, tôi sẽ công bố cuốn hồi ký của đời mình trên mạng Internet toàn cầu để mọi người nếu đã biết rồi sẽ biết thêm về mặt trái với những góc khuất của một xã hội tồi tệ được sơn son thếp vàng bởi một lũ bồi bút hèn hạ, trong đó, than ôi, có cả bàn tay của kẻ viết những dòng này.
Tại sao lại phải công bố trên Internet?
Bởi vì không thể trông chờ sự xuất hiện của một nhà xuất bản tư nhân nhờ “ơn trên” nào đó sẽ ra đời trong một cuộc đổi mới giả hiệu, và tập hồi ký này sẽ được in. Trong cái quái thai “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” vẫn độc tài với tự do tư tưởng, với nhân quyền tối thiểu, chuyện đó quyết không thể xảy ra.
Thật tình, tôi những ước mong lời nhắn gửi của tôi sẽ đến tay đồng bào, bè bạn, đồng đội, “đồng chí” cũ của tôi, những thế hệ sau tôi, kể cả “kẻ thù” của tôi nữa, trong dạng một cuốn sách bằng giấy trắng mực đen hơn là một cuốn sách trên màn hình máy tính. Mạng thông tin toàn cầu cho tới nay vẫn còn là một cái gì xa lạ với tuyệt đại đa số dân chúng Việt Nam, kể cả nhiều người gọi là có học nhưng đã về già, không còn sức để đọc mấy trăm trang trên computer!
Cuối cùng, xin người đọc, nhất là các bậc thức giả, hãy lượng thứ cho những thiếu sót, những nhầm lẫn ở chỗ này chỗ khác về tên tuổi, địa danh, ngày, tháng... mà một cây bút “trẻ” ở tuổi 80, tài vốn hèn, sức đã kiệt, có thể mắc phải.
Sài Gòn ngày 1 tháng 5 năm 2007
˜ TÔ HẢIBài do niên trưởng Nguyễn Hữu Hùng chuyển

Lời tựa “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn”

Lê Phú Khải (*)



Bộ đội Tô Đình HảiNguồn: luyenkim.net
Đọc Hồi Ký Của Một Thằng Hèn của nhạc sĩ Tô Hải, tôi bất giác nhớ đến bác sĩ Nguyễn Khắc Viện. Ông là một trí thức Việt kiều, rất hăng hái hoạt động trong phong trào mác-xít, đảng viên Đảng cộng sản Pháp, đã tình nguyện về nước để tham gia kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hăng hái là thế, mà ở tuổi ngoài tám mươi, khi làm bản tổng kết đời mình, ông đã phải thốt lên: “Đời tôi là đời một thằng ngây thơ”. Trong hai chữ “thơ” và chữ “ngây”, tôi xin giữ lại cho mình chữ “thơ” vì đã đi theo kháng chiến, còn cái chữ “ngây” để chỉ cái sự đi theo chủ nghĩa xã hội thì xin… vứt nó đi!”Nguyễn Khắc Viện tự đánh giá như thế là khách quan, là công bằng. Cần phải tách bạch hai chuyện ‒cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và cái gọi là xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Một đàng là hành động theo lương tâm, một đàng là hành động theo lý thuyết được người khác khuyến dụ, và cả ép buộc nữa.Tô Hải và Nguyễn Khắc Viện ‒ hai con người, hai số phận, cả hai đều được Nhà Nước Cộng Sản tặng nhiều huân chương “cao quý”, nhưng cái tương đồng giữa hai người là ở chỗ họ đều thiết tha yêu nước, nhưng không thể yêu xã hội chủ nghĩa. Cậu học trò Tô Hải gia nhập Vệ Quốc Đoàn ngay từ những ngày đầu cách mạng. Là người yêu nhạc bẩm sinh, Tô Hải khởi đầu cuộc đời nghệ thuật của mình bằng các ca khúc vui nhộn theo các điệu swing, rumba ‒ thứ nhạc bị coi là phi vô sản ‒ để giúp đồng đội quên đi những thiếu thốn, gian khổ trong cuộc chiến đấu không cân sức với quân xâm lược. Lúc ấy người ta rộng lượng tha cho Tô Hải cái tội làm nhạc theo cách của bọn đế quốc, tội ấy để đấy cái đã, tính sau. Cuộc đời binh nghiệp của Tô Hải có đủ niềm vui và nỗi buồn, vinh quang và tủi nhục, được ông trung thực ghi lại trong cuốn sách mà bạn đang cầm trong tay. Nó là cuốn sách cần cho những ai muốn biết về chủ nghĩa cộng sản trong hiện thực. Nó cần cho những ai chưa tỉnh giấc nồng của những mộng mị được sơn phết vàng son. Tôi có cái duyên được làm bạn với tác giả cuốn sách. Là người hâm mộ nhạc sĩ Tô Hải, lại là học trò của ông (ông là thầy dạy tôi tiếng Pháp), nên mỗi lần có hội hè, tết nhất, bạn bè, đồng ngũ, đồng khóa Lục Quân Trần Quốc Tuấn tụ tập ở nhà ông, tôi thường được hân hạnh cùng dự. Những cuộc gặp mặt như thế thật cảm động. Những người lính của một thời kháng chiến đã trôi xa vui mừng gặp lại nhau, cùng nhau ôn lại các kỷ niệm chung. Tô Hải và các bạn ông đã là những ông lão, nhưng nhìn họ ngồi bên nhau, say sưa hát vang những bài ca chiến đấu cũ, những bản tình ca không thể nào quên của Tô Hải, tôi vẫn thấy trong họ bóng dáng của những chàng trai một thuở “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu”.Không khí trầm hẳn xuống khi những chiến sĩ năm xưa đụng đến thời cuộc hôm nay. Đâu rồi, cái thời những con người hết lòng xả thân vì nghĩa lớn? Đâu rồi tình đồng chí, đồng đội tử sinh không rời? Tất cả những cái đó đã có, nhưng tưởng chừng không có. Như thể một giấc mơ.Cái “chủ nghĩa xã hội đáng phải vứt đi” như Nguyễn Khắc Viện nói, đã dần dần, từng chút một để không ai nhận thấy, được bàn tay phù thuỷ dựng lên thành bức bình phong che giấu những gì bẩn thỉu nhất mà lịch sử từng biết, trong sự tước đoạt tất cả thành quả máu xương của bao chiến sĩ, đồng bào đã đổ ra. Những người ngồi đây, trước mắt tôi, là chứng nhân cuối cùng còn sống. Một trong những chứng nhân ấy là Nguyễn Khải, đại tá nhà văn, giải thưởng Hồ Chí Minh. Trước khi chết ông đã gửi lại lời trối của kẻ lạc đường trong mấy câu: “Quả thật dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào đấu tranh giải phóng nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do, công bằng và dân chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngã đến thế!”Có thể nói không ngoa rằng Hồi Ký Của Một Thằng Hèn là cuốn biên niên sử ghi lại quá trình từng bước, từng bước, nhân dân Việt Nam, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ bị tước đoạt đi cái quý giá nhất đối với con người là Tự Do. Là chứng nhân của lịch sử, Tô Hải ghi lại trung thực, sống động cả một quá trình nhào nặn, đấu tố, cưỡng bức tư tưởng để biến văn học nghệ thuật thành “vũ khí đấu tranh” của Đảng, cho Đảng, vì Đảng. Hồi Ký Của Một Thằng Hèn là những trang viết bằng máu và nước mắt ghi lại tỉ mỉ tấn bi kịch của chính tác giả và bạn bè ông, nay kẻ còn, người mất, để mọi người được biết họ đã phải sống như thế nào, phải… “hèn nhát” ra sao chỉ cốt để tồn tại.Trong hồi ký của ông có biết bao gương mặt tiêu biểu cho một nền văn nghệ cổ vũ cho bạo lực, cho chém giết. Ông đau lòng kêu lên: “Biến cả dân tộc vốn hiền hòa thành một sa mạc vô cảm. Một đất nước mà tất cả đàn ông trai tráng đều đi làm nghĩa vụ quân sự không những trong nước mà còn ở…cả quốc tế vì…“lịch sử đã chọn ta làm điểm tựa”! (Tố Hữu ‒ [sic!]) Ở hậu phương chỉ còn những em bé mà mới lên năm đã bình thản…cắt tiết gà, và phụ nữ “ba đảm đang” phải sắn quần lợp mái nhà, chọc tiết lợn…Ông không ngu để không nhận thấy ông và những người như ông, nói rộng ra là tất cả văn nghệ sĩ thuộc mọi ngành, muốn tồn tại đều bắt buộc phải làm nô bộc cho đảng cầm quyền. Là người được kết nạp vào đảng cộng sản rất sớm (1949), ông đã nhận ra rằng “Chưa bao giờ ở nước này có chủ nghĩa cộng sản cả!”, kể cả chủ nghĩa cộng sản trong lý thuyết kinh điển. Tất cả đều chỉ là sự lợi dụng lòng yêu nước của toàn dân để củng cố địa vị ăn trên ngồi trốc cho một nhóm người thậm chí chẳng đọc nổi và cũng chẳng hiểu nổi những lý luận xét cho cùng là rất tào lao của mấy ông Tây cuối thế kỷ thứ 19. Và, trải qua những đại bi kịch được đảng cộng sản luôn say máu đấu tranh tạo ra như Cải Cách Ruộng Đất, Chỉnh Đảng Chỉnh Quân, Nhân Văn Giai Phẩm, Xét Lại Chống Đảng, Cải Tạo Tư Sản, Cải Tạo Công Thương Nghiệp… Tô Hải đã thấy đàng sau nó thực sự là cái gì. Nó chẳng phải cái gì khác ngoài mưu đồ của một lũ cơ hội chuyên nghề lừa bịp, trấn áp nhằm chiếm bằng được quyền cai trị đất nước. Tất cả những thủ đoạn đó được lôi ra ánh sáng bằng ngòi bút trung thực. Ông không che giấu những việc đáng xấu hổ khi tả lại cảnh phải đóng vai “đại hèn” để vợ con có miếng ăn, không bị cắt sổ gạo, bị đuổi khỏi biên chế hay tệ hại hơn nữa, bị đi cải tạo, vào tù. Ông thẳng thắn chỉ ra những bộ mặt cơ hội trong giới văn nghệ sĩ đã nhẫn tâm bước qua xác đồng nghiệp để kiếm chút đỉnh chung.Ông không ngần ngại nói về những công việc được gọi là “văn nghệ phục vụ giai cấp vô sản”, trong đó có ông tham gia, cho thấy những tác phẩm được tạo ra trong một nền văn nghệ như thế chỉ là “một mớ táp nham không có một chút giá trị nghệ thuật”.Nhìn thấu tâm can của những tên cơ hội cách mạng, và cả tính phi nhân của chính cuộc cách mạng gọi là xã hội chủ nghĩa nữa, Tô Hải quyết tìm cách thoát khỏi mọi ràng buộc với cái Đảng quyền lực vô song, quyết không chịu ép mình “sáng tác theo yêu cầu của Đảng” thêm nữa.Giữa lúc những “cán bộ cách mạng” lăn xả vào cuộc đại kiếm chác sau ngày đất nước thống nhất, ông bỏ về hưu non, sống cuộc sống nghèo nàn, thiếu thốn, nhưng giữ lương tâm trong sạch. Vì hai tiếng TỰ DO, tác giả Nụ Cười Sơn Cước, giao hưởng hợp xướng Tiếng Hát Biên Thùy sẵn sàng đánh đổi tất cả. Thế hệ sinh viên Hà Nội chúng tôi vào thập niên 1960, những Nguyễn Xuân Tụ (Hà Sĩ Phu), Bùi Minh Quốc, Trần Mạnh Hảo, Lê Phú Khải... đều biết Tô Hải. Chúng tôi từng đứng trong các dàn hợp xướng sinh viên, cất cao lời ca gìn giữ biên cương của tổ quốc với niềm vui và niềm phấn khởi vô bờ. Tiếng Hát Biên Thuỳ và Trở Lại Đô Thành (từng bị cấm) và nhiều tác phẩm khác của Tô Hải ngày nay ít người biết đến, chúng chỉ còn lại như những kỷ niệm nằm chung với rất nhiều tác phẩm sáng tác sau này của Tô Hải, mà ông cay đắng gọi chúng là những sáng tác “bỏ tủ lạnh”. Mà đâu phải chỉ có mình Tô Hải. Còn biết bao nhiêu nhân tài của đất nước cũng đã bị vùi dập như thế?Khi gặp ông ở một xóm nhỏ Nha Trang, tôi mới biết ông đang làm gì. Thì ra ông dành toàn bộ thời gian cho cuốn hồi ký mà ông ấp ủ nhiều năm. Ông viết trong tình trạng sức khoẻ tồi tệ, phải chống nạng đi trong nhà, cuộc sống của cả gia đình trông vào chiếc xe bánh mì ở đầu đường của người vợ rất mực thương yêu chồng, chia sẻ hoài bão của chồng… Ông kì cạch viết mỗi ngày một vài trang, viết rồi xóa, xóa rồi lại viết vì… như ông thú nhận: cái nỗi Hèn vẫn cứ ám ảnh ông không thôi! Là người cũng sống nhiều năm trong xã hội chuyên chế, tôi hiểu: vượt qua nỗi Hèn chẳng hề là chuyện dễ.
Đại hợp xướng Tiếng hát biên thuỳ của Tô Hải. Đây là bản hợp xướng bị “bỏ tủ lạnh” cả nửa thế kỷ, khi mà biên cương giữa hai nước Việt Nam-Trung Hoa đang được người ta ca ngợi là... “núi liền núi sông liền sông ..chung một biển Đông. Mối tình hữu nghị sáng như rạng đông...” hoặc “Bác Mao nào ở đâu xa/Bác Hồ ta đó chính là...Bác Mao”Nguồn: luyenkim.net
Mười năm ròng, mỗi ngày một ít, vừa viết vừa phải đấu tranh kịch liệt cái Sợ, cái Hèn để có thể viết đúng, viết thực, không nhân nhượng với cái gì, kể cả bản thân, cuối cùng ông đã hoàn thành cuốn hồi ký chỉ với mục đích “để lại cho con cháu và đời sau biết về nhiều sự thật bị giấu kín, mà điều cay đắng nhất là để mọi người hiểu được Vì Đâu? Vì Ai? Vì Cái Gì?”Tô Hải không đặt cho mình mục đích lên án cái chủ nghĩa Mác-Lê đã bị lịch sử chôn vùi, đã bị toàn thế giới lên án, và cái đảng đã đưa đất nước tới tình trạng hôm nay ‒ một nước chậm tiến, nghèo khổ, lạc hậu hơn các quốc gia khác ở Đông Nam Á. Ông viết ra những suy ngẫm của mình, kêu gọi mọi người cùng suy ngẫm với ông, về hiện tình đất nước, về một nền văn nghệ không còn bản sắc, đến nỗi một nửa thế kỷ qua chẳng có một tác phẩm xứng đáng được xếp vào di sản văn hoá dân tộc, xứng đáng để đời sau con cháu tự hào. Ông không chối bỏ tư cách “vừa là nạn nhân, vừa là tội đồ”, ông nhận ông là kẻ có tội vì chính ông cũng đã tham gia vào cuộc lừa bịp vĩ đại. Qua hồi ký của ông, ta thấy quả thật, đời ông quá nhiều cay đắng. Nhưng, cũng với cuốn hồi ký này ông sẽ được đền bù ‒ những người đọc ông sẽ hiểu ông và yêu mến ông. Mà có hạnh phúc nào lớn hơn thế đối với một con người đau khổ.Ông là trí thức đúng nghĩa vì đã vượt qua chính mình, cái mình bị nhào nặn bởi bàn tay kẻ khác, để công bố tất cả, không phải chỉ những gì là Tội Ác của kẻ khác mà cả cái Hèn của chính mình. Việc làm đó, ngay khi ông còn sống trong lòng chế độ chuyên chế, là việc làm dũng cảm, nếu không muốn gọi là anh hùng. Bằng việc làm này, ông đã vượt xa những kẻ cũng mang danh trí thức, cũng gọi là nhà văn, nhưng suốt đời chẳng dám viết một cái gì theo tiếng gọi của trái tim mình. Gần đây, tôi lại càng ngạc nhiên khi biết Tô Hải trở thành blogger ở tuổi 80 với những bài viết được lớp trẻ đón nhận chưa từng thấy (200.000 người đọc trong vòng 18 tháng). Tôi càng khâm phục khi ở tuổi 81, ông đã cùng sinh viên, thanh niên xuống đường đi biểu tình phản đối bọn xâm lược Trung Quốc, khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa là của tổ quốc Việt Nam. Đi biểu tình về đến nhà, ông ngồi xuống viết ngay một entry “Tớ đi tụ tập đông người không có phép” được hơn 20 báo điện tử và đài phát thanh nước ngoài phát lại.

Nhạc sĩ Tô Hải và những phút biểu tình ngắn.. 16/12/2007 tại Sài Gòn
http://www.youtube.com/watch?v=NJ_XcKqjh9A&eurl=

Tập hồi ký này không phải chỉ để cho các thế hệ sau này, mà cho cả chúng ta nữa, hiểu rõ thêm những trang lịch sử đau buồn đã nhiều năm bị che giấu. Hi vọng trong một tương lai gần, nền văn nghệ Việt Nam sẽ vứt bỏ được cái quá khứ đáng nguyền rủa ở thế kỷ trước để bước vào con đường sáng sủa, con đường của Chân, Thiện, Mỹ, con đường của Tự Do, như Tô Hải hằng mơ ước.

Thứ Hai, 13 tháng 4, 2009

Tiếng thét: ngừng ngay lại! Bôxít - stop!

Không thế thế được! Đất nước này là của hơn 80 triệu con người bình đẳng.Việt nam không phải của riêng 15 người.
Người ta hẹn sẽ sớm tổ chức hội nghị khoa học thảo luận kỹ về khai thác bô-xít.
Vậy mà hàng trăm xe ủi, xe ben, xe tải vẫn chạy ầm ầm ở huyện Đak Nông; mặt bằng tuần trước là 50 héc-ta, nay đã là hơn một trăm héc-ta đỏ chót. Mới đó, người Trung quốc lạ lẫm mới có đó 500, nay đã hơn 1 nghìn, sắp vọt lên 6 ngàn.
Ông Nguyễn Phú Trọng vào tận nơi đốc thúc, còn mớm cho xã và huyện rằng: "chính quyền địa phương kiến nghị(!) với Quốc hội và Chính phủ sớm khai thác bô-xít".
Họ đang mở tốc độ thi đua với thời gian, làm việc đã rồi. Để không lùi được nữa.
Nhưng không được!

Những tiếng nói cảnh báo về bô-xít: nhà báo Phạm Đình Trọng, nhà nghiên cứu Nguyễn Trung, nhà văn Nguyên Ngọc, Giáo sư vật lý Phạm Duy Hiển
Bức thư tâm huyết của chiến sỹ - nhà văn - nhà báo Phạm Đình Trọng gửi cho thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không chút hồi âm, nhưng được truyền ngay khắp cả nước và ra nước ngoài, được đồng cảm rộng rãi, khơi dậy vô vàn dòng nước mắt thương xót của con em nước Việt; sau những phân tích có tình có lý của nhà khoa học Nguyễn Trung, của nhà văn hoá Nguyên Ngọc, là bài luận văn của cán bộ cốt cán trong cuộc tiến sỹ Nguyễn Thành Sơn, giám đốc Công ty năng lượng sông Hồng thuộc Tổng công ty Than-Khoáng sản Việt nam, chứng minh rằng lao vào khai thác bô-xít là lao vào một sai lầm kinh tế-chính trị-tài chính-văn hóa-môi trường khổng lồ, kinh khủng, không có thể sửa chữa, vớt vát được. Ông Sơn phản biện từng điểm một, để kết luận như đinh đóng cột rằng đây là một cuộc phiêu lưu liều lĩnh, nuôi quá nhiều tham vọng, không dựa trên cơ sở thực tế nào, mang quá nhiều rủi ro và bất cập, không có nước nào, không có một ai làm như ta; thật "không giống ai". Chuyên gia vật lý Phạm Duy Hiển cũng có bài phản biện khoa học có giá trị.
Ở ngay vùng Đak Nông, thày giáo cấp 3 Y-Long người dân tộc M’Nong, chiếm 40% dân trong huyện, tỏ rõ thái độ lo lắng, băn khoăn rằng dân địa phương không có lợi gì từ khai thác bô-xít, sẽ không có công ăn việc làm, các vườn cao su, chè, càphê, tiêu trù phú... sẽ biến trong bùn đỏ độc hại. Đồng bào các dân tộc trước nguy cơ lớn.
Làm gì bây giờ? Khoanh tay chăng? Thúc thủ chăng? Chịu chết cả hay chăng?
Các bạn từ Hà nội, Hải phòng, Đà lạt, Vũng tàu, Sàigòn tới tấp gọi nhau, và gọi cho bà con bạn bè ở Mỹ, Canada, ở Pháp, Đức, Balan, khuyến khích nhau: phải làm gì chứ, khẩn cấp lắm rồi, không còn có thể nói xuông nữa.
Và xin tập họp ý kiến và đề xuất với đồng bào ta ở mọi nơi:
- Hãy thông tin thật rộng rãi những bài thư, luận văn, thơ thời sự của tiến sỹ Nguyễn Thành Sơn, của ông Nguyễn Trung (người đã vào tận Đak Nông để nghiên cứu), của nhà văn Nguyên Ngọc, nhà báo Phạm Đình Trọng, nhà khoa học Phạm Duy Hiển, chuyên gia môi trường Mai Thanh Truyết ở Nam Cali (Mỹ), nhà thơ Hà Sỹ Phu (với chùm thơ đả kích cổ vũ, thôi thúc); và nhiều bài trên các mạng, các báo Tổ Quốc, Tự do Ngôn luận, Tự do Dân chủ, Tuổi Trẻ, VietnamNet... về chuyên đề bô-xít đang nóng bỏng.
Rất mong các bạn trẻ trong nước, ở các trường đại học, các trường phổ thông cấp 3 in ra nhiều bản để tán phát.
- Nên in rất nhiều truyền đơn bằng máy điện toán, những khẩu hiệu, như:
+ Toàn dân, xiết chặt hàng ngũ, nói KHÔNG với bô-xít!
+ Hãy tổ chức hội thảo khoa học về bô-xít đã!
+ QUỐC HỘI CẦN THẢO LUẬN KỸ, BỎ PHIẾU KÍN "NÊN HAY KHÔNG NÊN" KHAI THÁC BÔ-XIT; HÃY TRƯNG CẦU DÂN Ý VỀ KHAI THÁC BÔ-XIT!
+ Ngừng ngay san thêm mặt bằng!
+ Ngừng ngay đưa người nước ngoài vào Tây Nguyên, Dak Nông, Lâm Đồng!
+ Bụi đỏ bô-xít, bùn đỏ bô-xít là nguồn chết!
+ Khai thác bô-xít là đẩy dân tộc, đất nước vào chỗ chết!
+ Kiên quyết không giao rừng, rẫy, ruộng, đất để khai thác bau-xít!
+ Không hạ một cây cao su, một cây càphê, không chặt một cây chè, một cây tiêu, một cây điều!
Nên vẽ nhiều tranh, vẽ hình sọ người và 2 xương chéo, dấu hiệu nguy hiểm chết người, dưới là chữ KHAI THÁC BÔ-XÍT; Sulfua Dioxide - bùn Đỏ chết người.
Hãy phát tán tài liệu, truyền đơn, khẩu hiệu buổi chiều, ban đêm, dán ở gốc cây, trên xe taxi, xe bus, xe từ Saigòn đi dường 20 lên Bảo Lộc Đàlạt, khắp đường giao thông, đường sắt, đường hàng không, các nhà ga, bến xe, bến tàu để phổ biến nhanh nhất, rộng nhất, lay động, thức tỉnh lương tri mọi người.
Mỗi người Việt nam yêu nước, hãy đứng dậy, nói không với bô-xít!
Tôi nói không, anh nói không, chúng ta nói không với bô-xít!
Thông tin là sức mạnh!
Truyền tin lúc này là việc khẩn cấp! là cứu nước lâm nguy!
Mỗi bạn hãy thông tin, trao đổi, hội thảo, bàn luận về bô-xít!
Xin đa ta. Người tập họp ý kiến,
Bùi Tín Paris.20-3-2009. Thơ Hà Sỹ Phu: Lửa bô-xít
Giặc đã ngự trị trên lưng Tổ quốcBô-xít tuôn lệ Đỏ khóc sơn hàHồn dân tộc Triệu Trưng về đốt lửaThiêu lũ hèn Chiêu Thống cháy ra ma
Câu đối:
- Cặp Ma đỏ, ép lũ sai nha đỏ, rước bọn quỷ đỏ, phun bùn đỏ, tận cùng tai họa đỏ- Tây Nguyên Vàng, khai dậy sản phẩm vàng, chè càphê vàng, giữ đất vàng, sáng mãi dạ gan vàng./.
Hãy nhân bản và tán phát rộng! Cám ơn bạn nhiều.

Biến Nhà Nước Pháp Quyền Trong Mơ Thành Hiện Thực

Theo Tạp Chí Cộng Sản số tháng 1-2007 “Ngay từ buổi đầu được thành lập và trong suốt quá trình xây dựng, phát triển, Nhà nước ta đã mang những yếu tố của Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Nhà nước đã từng bước thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.” Trên Báo Điện đảng CSVN, 4-02-2009, Nguyễn Viết Thực, Ban Dân vận Trung Ương nói về nhà nước pháp quyền: “Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và thể hiện địa vị tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội. Mọi cơ quan, tổ chức nhà nước, cán bộ công chức nhà nước và các thành viên khác của xã hội phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm minh tự giác. Nhà nước phải quản lý xã hội theo pháp luật và bằng pháp luật. Mọi vi phạm pháp luật phải được pháp luật xử lý nghiêm minh, kịp thời, thực hiện nguyên tắc mọi người bình đẳng trước pháp luật.”
Những trích dẫn trên cho thấy, ít nhất về mặt lý thuyết, CSVN cũng hiểu rõ ý nghĩa của nhà nước Pháp Quyền không khác gì mấy các xứ văn minh dân chủ. Thực thế khái niệm về nhà nước pháp quyền như trên (rule of law) có giá trị phổ quát, được đồng thuận rộng rãi trong thế giới dân chủ văn minh mà CSVN đang muốn hội nhập.
Nhưng trên thực tế hiện nay ở VN, nhất là sau khi tấm màn bưng bít thông tin của chế độ đã bị chọc thủng khá nhiều, những tin tức về việc công an đã xử dụng luật rừng đối với người dân bất đồng với mình, được lọt ra ngoài trên mạng thông tin toàn cầu gần như hàng tuần, khiến người ta càng thấm thía câu nói để đời của cựu tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì CS nói, hãy nhìn những gì CS làm”.
Lý giải ra sao sự mâu thuẫn giữa lý thuyết và thực tế trên?
“Đừng nghe những gì CS nói, hãy nhìn những gì CS làm”
Giả thiết thứ nhất, Đảng CSVN không bao giờ nghĩ rằng Đảng bịp bợm cho đồng bào ăn bánh vẽ, và thành thật tin rằng Đảng và Nhà Nước đang thi hành pháp luật nghiêm minh đối với những thành phần thực sự vi phạm luật pháp của nhà nước Pháp Quyền XHCN. Nếu quả thật như thế, thì Đảng đang thành thật hoang tưởng rằng Đảng CS của 2,3 triệu đảng viên, cũng là của tất cả nhân dân cả nước, là đồng nghĩa với nhân dân, dân tộc, tổ quốc. Nên có thể thay những chữ “nhân dân”, “dân tộc” bằng chữ “đảng” trong đoạn văn trích Từ Tạp Chí CS ở trên, để ngộ ra thực tế là: … Nhà Nước Ta đã mang những yếu tố của Nhà Nước Pháp Quyền của Đảng, do Đảng và vì Đảng, gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của Đảng…. Và ta cũng có thể quảng diễn thêm câu của Nguyễn Viết Thức ở trên: Nhà Nước Pháp Quyền XHCN... .phải thể hiện địa vị tối cao của Hiến Pháp... .Mọi vi phạm pháp luật phải được pháp luật xử lý nghiêm minh….thực hiện nguyên tắc mọi người bình đẳng trước pháp luật, nhưng dưới chân Đảng (vì điều 4 Hiến Pháp cho phép Đảng ngồi trên tất cả). Nếu thành thật tin tưởng điều trên đây là đúng đắn, Đảng CSVN sẽ không thể nào hiểu nổi tại sao người dân lại không thấy quyền của mình ở đâu đằng sau luật pháp nhà nước. Tại sao người dân lại không chịu tự giác tuân thủ pháp luật, mà cứ tìm cách luồn lách. Cho đến khi gặp bạo lực cưỡng chế pháp trị (rule by law) không lách nổi nữa mới thôi, và những thành phần bất tuân phục nhà nước đều bị coi là những thành phần phản động cần bị tiêu diệt, theo đúng lý tưởng chủ thuyết CS.
Giả thiết thứ hai, Đảng biết mình làm sai, không đúng với lý thuyết tốt đẹp, nhưng vẫn cứ nhất định gian dối đồng hóa mình với nhân dân dân tộc là một để hành xử như giả thiết trên, nhằm bảo vệ quyền lợi phe nhóm thiểu số của mình trên quyền lợi của dân tộc. Biết mình sai mà vẫn cứ làm, tội nặng hơn là làm sai mà vẫn tự tin mình đúng. Giả thiết thứ hai này có vẻ phù hợp hơn với thực tế hiện nay, nếu ta nhìn lại quá trình hành xử của Đảng và Nhà Nước trên phương diện luật pháp từ trước tới nay.
Thoạt đầu ở giai đoạn ấu trĩ luật pháp, Đảng xử dụng luật của đám đông được khích động, qua những toà án nhân dân đầy cảm tính và kịch tính trong chính sách cải cách ruộng đất. Có thể nói đây là thời kỳ luật rừng man khai, vì việc đặt ra, áp dụng, thi hành luật hoàn toàn không dựa trên cơ sở một hệ thống khách quan lô gíc, mà dựa trên ý đồ chính sách của Đảng cầm quyền, và trên cảm tính sợ hãi hay căm thù của quần chúng bị áp lực, khích động.
Dần dần, tiến bộ trưởng thành hơn, không còn màn nhân dân đấu tố man rợ, bớt đi cảnh cứ bị tình nghi có tội là đi tù vô thời hạn không cần xét xử, và cơ cấu tòa án được dàn dựng đàng hoàng hơn, các tội danh được ghi vào văn bản luật pháp. Cho tới ngày hôm nay, cơ cấu nhà nước pháp quyền tương đối rõ nét hơn nữa. Vai trò của luật sư được định chế hóa, có quy trình thời hạn điều tra, có quy trình phúc thẩm, giám đốc thẩm v.v… Tóm lại, cơ chế tổ chức và nguyên tắc luật sư tiến gần hơn đến những tiêu chuẩn pháp quyền của thế giới văn minh. Đây là những phát triển bề mặt tích cực, nhưng thực chất bên trong lại không theo kịp như thế, khiến người ta không khỏi nghĩ rằng CSVN miễn cưỡng phải từng bước đi lên con đường pháp quyền vì nhu cầu phải hội nhập vào thế giới văn minh chứ không phải chủ động tự nguyện đi lên.
Quả vậy, người ta luôn thấy những trì lực phản động cản trở tiến trình pháp quyền hóa từ CSVN, nhất là trong các vụ án liên hệ đến những người bất đồng chính kiến với Đảng. Trên thực tế, tòa án vẫn chưa phải là nơi xét xử có tội hay không, căn cứ trên luật pháp và hiến pháp. Mà là nơi để hợp thức hóa những bản án mà Đảng đã quyết định trước khi xử. Và vai trò của luật sư phần lớn để làm cảnh cho có vẻ công bình hay phần lớn để xin khoan hồng cho thân chủ, thay vì dựa vào luật pháp để bênh vực bị cáo. Trong tiến trình tranh tụng trước toà, nếu luật sư phản biện mạnh mẽ thì bị quan tòa chặn không cho cãi. Những tội danh vẫn mù mờ để cho Đảng tự tung tự tác diễn dịch trong tinh thần vừa đá bong vừa thổi còi, ví dụ như tội lợi dụng dân chủ (là thế nào?), tiết lộ bí mật quốc gia (bí mật mà dân hay ký giả biết thì không phải là bí mật nữa. Tại sao khép tội dân, trong khi tội đó là tội của người nhà nước trách nhiệm quản lý thông tin mật). Dân oan lên thành phố, trung ương, khiếu kiện về những ức hiếp của chính quyền tỉnh, xã thì bị xúc trả về để cho chính quyền địa phương cứu xét chính vụ việc mà dân đang kiện các cấp chính quyền đó, v.v…
“Cứ dùng ngay luật của nhà nước, bám vào lưng quần nhà nước mà đánh, đẩy lùi [chế độ]”
Nhưng, dù cho đó chỉ là bề mặt Pháp Quyền để che đậy thực chất ở trên, thì nó cũng đã phần nào buộc tay nhà nước. Ít nhất cũng giới hạn, không cho nhà nước công khai trắng trợn lộng hành. Từ đó, nhiều người dân cũng biết nương theo để đòi quyền lợi cho mình. Đã có những người dân đem luật quy định trên văn bản lý thuyết ra làm chỗ dựa, khiến cho các chính quyền địa phương chùn tay không dám ức hiếp, mà phải để họ yên. Sự hiểu biết nắm vững những điều luật, tuy chỉ là lý thuyết suông của nhà nước, đã khiến cho các nhà đối kháng tự tin hơn để tranh cãi, xử trí khi bị công an xách nhiễu. Như một luật sư có lý tưởng đã nói: “Cứ dùng ngay luật của nhà nước, bám vào lưng quần nhà nước mà đánh, đẩy lùi [chế độ]”. Đây là bàn đạp cho công cuộc đấu tranh bất bạo động. Lối đánh này đã tỏ ra hữu hiệu, thể hiện qua phản ứng của CSVN khi họ bắt đầu phải trở lại luật rừng.
Khi còn tự tin vào khả năng xử dụng pháp quyền của mình, CSVN đã lươn lẹo trong khuôn khổ luật pháp để trù dập đối lập. Họ vẫn núp sau luật pháp, viện dẫn luật này luật nọ, xác định tội danh (tuy mơ hồ), để trấn áp các nhà đối kháng đang đấu tranh trong luồng chế độ. Cho đến khi khó còn lý do xử dụng tội danh lợi dụng dân chủ, chống phá nhà nước, tiết lộ bí mật quốc gia,.... để cột các nhà phản kháng, họ bày ra các tội khác không liên hệ gì tới hoạt động bất đồng của người tranh đấu cho dân chủ. Ví dụ họ vô hiệu hóa blogger tự do Điếu Cầy bằng cách ép tội trốn thuế; hay vu cáo tội lừa tiền, ép tội vi phạm hành chánh, để đóng cửa văn phòng Ls Lê Trần Luật, để ông không thể biện hộ cho các giáo dân Thái Hà.
Bên cạnh đó, CSVN cũng để lộ ra rằng họ biết họ đuối lý và lo sợ mất kiểm soát, nên họ đã phải trở lại một số hành xử luật rừng bất cần công lý pháp quyền; ví dụ lôi các Ls Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân ra trước các cuộc đấu tố nhân dân (trước khi bắt giam), ném phân vào nhà ông Hoàng Minh Chính, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, bắt giam đánh đập nhà giáo Vũ Hùng, bắt cô Phạm Thanh Nghiên mà không nêu rõ tội danh, cưỡng bách chị Tạ Phong Tần ngay ngoài đường không có lý do chính đáng v.v… Quan trọng nhất gần đây, là CSVN lại quay vào tấn công ngay một định chế pháp quyền mà họ vẫn rêu rao sẽ nhắm tới thực hiện: Họ không cho luật sư thực hiện chức năng luật sư, qua việc không cho Ls Lê Trần Luật gặp thân chủ giáo dân Thái Hà của mình, bằng đủ mọi cách: họ xục xạo văn phòng luật sư, tịch thu các máy vi tính, khích động các thân chủ khiếu kiện vu khống ông lừa đảo họ (có thân chủ từ chối làm việc này), bắt ông lên “làm việc” với công an hằng ngày để cầm chân ông, phong tỏa phi trường, bến xe để chặn không cho ông ra Hà Nội tiếp xúc thân chủ giáo dân Thái Hà. Rồi cuối cùng đóng cửa luôn văn phòng Luật sư không cho hành nghề, khiến Ls Lê Trần Luật không thể biện hộ cho thân chủ mình trong ngày Phúc Thẩm.
Nếu lý thuyết Cộng Sản đi từ chế độ cộng sản nguyên thủy tự phát, rồi phát triển tới đích là chế độ cộng sản cao cấp tự giác không tưởng, thì CSVN cũng đang khởi đi từ luật rừng man khai, phát triển lên vòng trở lại gần với luật rừng cao cấp, thập thò đằng sau lớp son Pháp Quyền. Càng trở về với luật rừng, càng xa rời các nguyên tắc pháp quyền mà chính họ hô hào là điều phải, CSVN càng lộ ra sự sợ hãi, mất tự tin vào lý luận của mình, biết mình sẽ thua nếu thực hành đúng lý thuyết pháp quyền, nên cứ hành xử trái bừa, để còn bám được quyền lực trên đầu dân tộc.

Trong hàng ngũ những nhà đấu tranh cho lẽ phải đang hay từng bị bắt, có khá nhiều luật sư như: Lê Trần Luật, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Thị Thùy Trang, Lê Quốc Quân, ....
Nhưng lần này, khi dùng luật rừng để uy hiếp và cản trở Ls Lê Trần Luật hành nghề pháp định của mình, rồi trù dập ông về mặt kinh tế, CSVN đang đi vào một cuộc thử thách lớn. Có vẻ thông điệp họ muốn nhắn gửi giới luật sư Việt Nam rằng: “Liệu hồn, đừng dùng tư cách luật sư, bám dựa vào luật để gây khó khăn cho Đảng, Đảng có thể thu hồi lại định chế pháp quyền là quyền hành nghề của luật sư bất cứ lúc nào, và hơn thế nữa có thể triệt đường làm ăn sinh sống của luật sư nào dám hành xử theo lương tâm và lý tưởng của mình.”
Nếu sự răn đe này có hiệu quả, giới luật sư Việt Nam sẽ sợ hãi, thu về tiếp tục làm cừu non, làm hoa lá cành trang điểm cho lớp son Pháp Quyền của chế độ, sống một lẽ sống tự dối mình, để đổi lại sự yên ổn bản thân. Nhưng ngược lại, sư răn đe trên có thể trở thành cái tát khích động sự trổi dậy của giới luật sư. Có nhiều cơ sở biện minh cho tình huống này.
Thứ nhất, phần lớn những người theo học ngành luật là những người lý tưởng cao, muốn bảo vệ và mang lại công lý cho đời. Nhất là khi theo ngành luật trong một chế độ mà cầm quyền sẵn sàng ngồi xổm trên luật pháp, các luật sư tất phải dự kiến được, và chấp nhận ít nhiều những chông gai mình sẽ phải đương đầu. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà trong hàng ngũ những nhà đấu tranh cho lẽ phải đang hay từng bị bắt, có khá nhiều luật sư như: Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Lê Quốc Quân, Nguyễn Thị Thùy Trang, Nguyễn Bắc Truyền, Trần Quốc Hiền… Trên thế giới, giới luật sư cũng từng là lực lượng tiền phong cho các phong trào đấu tranh cho dân chủ, điển hình nhất gần đây tại Pakistan (Hồi Quốc): khi Tổng thống độc tài Pervez Mussharaf lạm quyền cách chức Thẩm Phán Tối Cao Mohammed Chaudhry vì ông này cương quyết giữ sự độc lập của tư pháp đối với hành pháp Pakistan, giới luật sư ý thức được sự đe dọa đối với quyền hành nghề của mình, đã đồng loạt lên tiếng phản đối, xuống đường mở ra một phong trào quần chúng đòi dân chủ đưa đến sự ra đi của Mussharaf, phục hồi lại nền dân chủ cho Pakistan một cách ôn hòa không đổ máu năm ngoái.
Thứ hai, thói luật rừng răn đe trên của nhà nước CSVN đang trực tiếp đụng đến bản sắc tư cách nghề nghiệp của giới luật sư. Đối với những luật sư bi bắt, trù dập trước kia, như Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân v.v… CSVN còn tìm được những lý cớ chính trị đàn áp, không liên hệ đến nghề nghiệp của những người này. Nhưng với Ls. Lê Trần Luật, lý do của sự trù dập là chỉ vì ông đang hành xử nghề nghiệp luật sư của mình một các đúng đắn, theo lương tâm và trách nhiệm của người luật sư để biện hộ cho thân chủ của mình đang có bất đồng tranh chấp với nhà cầm quyền. Im lặng chịu khuất phục, không phản ứng bênh vực đồng nghiệp mình đã bị bất công tước đoạt quyền hành nghề, giới luật sư có thể làm mất đi uy tín của chính mình, và người dân sẽ không còn lý do gì để mà tin tưởng nhờ đến luật sư nữa, khi giới này bó tay không bênh vực nổi cho chính sự hành nghề của mình.
Thứ ba, sự giao lưu mở cửa ra bên ngoài và đi vào biển lớn thế giới của Việt Nam hiện nay đã gỡ đi rất nhiều màn bưng bít thông tin của chế độ và buộc CSVN dù muốn dù không cũng phải duy trì một bộ mặt pháp quyền, ít nhất trên lý thuyết. Điều này giúp tăng thêm tính khả thi cho nỗ lực đẩy lùi những trở lực phản động lại sự tiến hóa dân chủ, và đây là thời điểm thuận lợi để thúc đẩy tiến trình pháp quyền hóa sang mức bất khả hồi, khiến CSVN không thể đi lùi trở lại được nữa. Chắc chắn giới luật sư Việt Nam phải thấy rõ hơn ai hết cơ hội này.
Thứ tư, thực tế đã cho thấy, ngay khi Ls Lê Trần Luật bị xách nhiễu, đã có ngay sự lên tiếng của đồng nghiệp ở nhiều mức độ khác nhau, phê phán hành vi luật rừng của nhà nước, như những bài viết của Ls Lê Công Định, Ls Lê Quốc Quân, trả lời phỏng vấn của Ls Trần Lâm v.v… Và chắc chắn giới luật sư cũng thấy rằng những tiếng nói rời rạc riêng lẻ sẽ là con mồi bị tỉa dần từng con, thay phiên nhau lần lượt làm những nạn nhân Lê Trần Luật kế tiếp, nếu không có sự lên tiếng của cả bó đũa như các tập thể luật sư đoàn, để bảo vệ chính quyền lợi nghề nghiệp của mình nói riêng và nền công lý nói chung.
Người dân thường chúng ta hãy cùng nhau chuẩn bị sẵn sàng tham gia hỗ trợ giới luật sư lý tưởng, để sớm giành được lại công lý cho toàn dân, biến nhà nước Pháp Quyền trong mơ hay bánh vẽ thành hiện thực cho dân tộc mình.
Đặng Vũ Chấn
(Người viết không phải là luật sư nhưng luôn ôm ấp niềm tin lớn vào lý tưởng và giá trị của giới luật gia đối với tương lai đất nước chúng ta. Rất mong được đón nghe tiếng nói của những luật gia Việt Nam đang cùng chia xẻ ước mơ này.)

Hiến Pháp mới

HIẾN PHÁP NỀN ĐỆ TAM CỘNG HÒA VIỆT NAM

Bản tiếng Việt hoàn chỉnh tại đây:http://www.megaupload.com/?d=RTTUVXKM
English version:http://www.megaupload.com/?d=BYZ9ST1L

Chúng tôi, tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam, đồng ý và công bố Bản Hiến Pháp Nền Đệ Tam Cộng Hòa Việt Nam như sau:Nền Đệ Tam Cộng Hòa Việt Nam được nhân dân Việt Nam dựng nên nhằm cung cấp các điều kiện sống tốt nhất có thể được cho số đông nhất trong dân chúng Việt Nam thông qua việc chia sẻ trách nhiệm một cách công bằng nhất.Bản Hiến Pháp nhấn mạnh việc bảo vệ nhân phẩm và nhân quyền, điều hành tự do một cách vừa phải, và tạo điều kiện cho các sự tăng trưởng một cách hòa bình trong mọi lãnh vực đời sống.Không một bản Hiến Pháp nào tự bản chất có thể cung cấp cho chúng ta tất cả mọi điều chúng ta mong muốn. Là nhân dân Việt Nam, chúng ta quyết định sẽ cống hiến, xây dựng, gìn giữ, và tôn trọng Bản Hiến Pháp của chúng ta cũng như sửa đổi trong tương lai khi chúng ta gặp phải các hoàn cảnh mới lạ chưa từng xảy ra.Quá trình này sẽ là một sự tăng tiến về văn minh, xã hội có tính lịch sử, một quá trình sẽ bảo đảm sự tự do cho chúng ta được thụ hưởng các thành quả của công sức, mồ hôi chúng ta đổ ra, của di sản văn hóa mà tiền nhân đã để lại cho chúng ta sau nhiều ngàn năm hy sinh cống hiến.Nhân dân Việt Nam chúng ta sẽ tiếp tục cống hiến vào tiến trình này một cách dứt khoát. Chúng ta nhận thức rằng chúng ta có một nghĩa vụ đạo đức, quốc gia, và quốc tế phải làm như vậy.Trong khi chúng ta viết lên các hàng chữ này của Bản Hiến Pháp, chúng ta như thấy trước mắt cả lịch sử quá khứ, hiện tại, và tương lai của dân tộc chúng ta. Chúng ta thấy trước mắt chúng ta vị Vua Hùng Vương Thứ Nhất kính mến đã thống nhất nhiều bộ lạc sống rải rác và lập lên nền Văn minh Hồng Bàng gần năm mươi thế kỷ trước.Chúng ta thấy trước mắt chúng ta nhiều thế hệ tiền nhân này theo sau nhiều thế hệ tiền nhân khác đã ngã xuống trong các trận chiến tranh, trong các sự khắc nghiệt của thiên nhiên, để chúng ta có thể đứng vững, đứng thẳng và kiêu hùng, như một dân tộc Con Rồng Cháu Tiên.Trên nền tảng của Bản Hiến Pháp này, chúng ta sẽ dựng nên Tổ quốc chúng ta theo những phương cách sẽ làm ông cha ta phải hãnh diện vì chúng ta.Chúng ta thấy trước mắt chúng ta tương lai của Việt Nam, một tương lai hòa bình, thịnh vượng, tự do, và công bằng cho mọi người – nơi chúng ta sẽ vĩnh viễn tự do quyết định đường hướng cho cuộc sống chúng ta, và sẽ chịu trách nhiệm toàn diện cho các sự chọn lựa để chúng ta đạt được điều đó.Chúng ta sẽ sống trong tự do chứ không phải trong sợ hãi. Chúng ta sẽ bầu lên các chính phủ phục vụ cho chúng ta, chứ không tiếp tục chịu nhịn các chính phủ bắt buộc chúng ta làm nô lệ cho họ như trong thời gian vài mươi năm qua.Vì những điều trên đây, chúng ta lập nên Bản Hiến Pháp này, Bản Hiến Pháp của nền Đệ Tam Cộng hòa Việt Nam sẽ (1) lấy ước vọng của nhân dân Việt Nam làm điều luật cao nhất cho quốc gia, (2) hủy bỏ đi tất cả mọi xử dụng bạo lực trong chính trị, (3) hủy bỏ đi việc hình sự hóa các cuộc tranh luận và các khác biệt chính trị trong ôn hòa, (4) dựng nên chính phủ của nhân dân Việt Nam qua các cuộc Tổng Tuyển cử và Trưng cầu Dân ý, qua Tam quyền Phân lập giữa Lập pháp, Hành pháp, và Tư pháp trong chính phủ.Vì các điều khoản trên, tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam ủng hộ các điều sau đây:
TIỀN ĐỀĐIỀU I: Việt Nam sẽ là một một quốc gia có Nền Cộng hòa dân chủ, xã hội, không thể chia cắt, không có quốc giáo. Nền Cộng hòa sẽ bảo đảm quyền binh đẳng của mọi công dân trước pháp luật bất kể tuổi tác, xuất thân, dân tộc, hoặc tôn giáo. Nền Cộng hòa sẽ tổ chức và phân bổ quyền hành xuống địa phương.ĐIỀU II: Bản quốc ca của Nền Cộng hòa sẽ là bài ca "Việt Nam, Việt Nam".ĐIỀU III: Quốc kỳ sẽ có ba sọc xanh dương, trắng, đỏ, với một ngôi sao vàng trên nền sọc trắng.Phần 1: Màu xanh dương tượng trưng cho bầu trời, vùng biển xanh đã nuôi sống dân tộc ta qua nhiều ngàn năm.Phần 2: Màu trắng tượng trưng cho sự trong sáng, trong sạch, trong tâm hồn dân tộc Việt Nam.Phần 3: Màu đỏ tượng trưng cho lòng dũng cảm, anh hùng của tiền nhân chúng ta, máu họ đã đổ thắm lòng đất mẹ, màu cờ, cho chúng ta được kiêu hùng ngày nay.Phần 4: Màu vàng tượng trưng cho màu đất lãnh thổ Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam tại Á châu, và ngôi sao Năm cánh tượng trưng cho năm nghề nghiệp chính của dân tộc ta: Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh.ĐIỀU IV: Ngôn ngữ của Nền Cộng hòa sẽ là Anh ngữ và Việt ngữ. Tất cả hoạt động và văn bản chính thức đều bằng hai ngôn ngữ Anh - Việt.ĐIỀU V: Tôn chỉ của Nền Cộng hòa sẽ là: Tự do, Bình đẳng, và Sự thật.ĐIỀU VI: Ba nguyên tắc căn bản nhất của Nền Cộng hòa:Phần 1: Ý muốn của đa số nhân dân là điều luật cao nhất của quốc gia.Phần 2: Chính phủ sẽ từ nhân dân, bởi nhân dân, và vì nhân dân.Phần 3: Các cuộc vận động chính trị sẽ hoàn toàn bất bạo động và không hình sự hóa các lý tưởng khác biệt.ĐIỀU VII: Ngành Lập pháp phải tuân thủ theo Bản Hiến pháp.ĐIỀU VIII: Ngành Tư pháp và Hành pháp phải tuân thủ theo luật pháp đã được Lập pháp thông qua.ĐIỀU IX: Các đảng chính trị được tự do thành lập miễn được tổ chức theo các quy định của Bản Hiến pháp.ĐIỀU X: Quyền lực chính trị phải do nhân dân nắm giữ, và nhân dân có thể xử dụng quyền lực này bằng cách bầu ra các đại diện, và qua các cuộc trưng cầu dân ý.ĐIỀU XI: Bầu cử sẽ trực tiếp, phổ thông, bình đẳng, và trong sự kín đáo.ĐIỀU XII: Tất cả mọi công dân Việt Nam trên toàn thế giới, ít nhất 18 tuổi, và có quyền công dân hợp lệ, đều có quyền bỏ phiếu trong tất cả mọi cuộc bầu cử trong Thành phố mà người đó ghi danh tại Việt Nam.ĐIỀU XIII: Quyền lực chính trị sẽ bao gồm mọi thành phần và đa phương. Không một đảng chính trị nào có quyền ngăn cấm một đảng chính trị khác tham gia vào tiến trình dân chủ trong khi đảng chính trị kia tuân thủ luật pháp đầy đủ.ĐIỀU XIV: Nền Cộng hòa sẽ tuân thủ Bản Thỏa ước Nhân quyền do Liên Hiệp Quốc thông qua, và lần sửa chữa chót vào năm 1997.ĐIỀU XV: Mọi hình thức cờ bạc sẽ bị nghiêm cấm. Mọi thỏa thuận và tham gia vào việc này tại Việt Nam trước khi Bản Hiến pháp này được chấp thuận đều sẽ bị hủy bỏ.ĐIỀU XVI: Không một viên chức chính phủ nào sẽ bị truy tố dưới bất cứ hình thức nào nếu người đó chẳng qua chỉ thi hành nhiệm vụ chính phủ.ĐIỀU XVII: Mọi viên chức chinh phủ được bầu lên đều không thể bị truy tố dân sự khi đang trong thời hạn nhiệm chức. Mọi quy chế giới hạn thời gian có thể bị truy tố sẽ được tạm ngưng trong thời gian người này còn nhiệm chức.ĐIỀU XVIII: Mọi quy chế giới hạn thời gian có thể bị truy tố và mọi truy tố dân sự trong Điều XVII kể trên sẽ được tái lập chống lại nhân viên chính phủ được bầu lên, một tháng sau khi người này thôi chức vụ.
CHƯƠNG I: BẢN TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN CHO VIỆT NAMĐIỀU I: TỰ DO NGÔN LUẬNPhần 1: Quốc hội không được cấm bất cứ tôn giáo nào xử dụng quyền tự do ngôn luận, miễn là các tôn giáo này giới hạn phạm vi hoạt động của họ tại các nơi thờ phượng được định trước.Phần 2: Mọi người đều có quyền tự do bày tỏ và giải thích ý kiến riêng họ bằng các cuộc diễn thảo, bằng tài liệu, hoặc bằng hình ảnh, miễn không vi phạm quyền bảo vệ cá nhân của người khác, và không vi phạm các điều khoản luật lệ khác.Phần 3: Quốc hội phải thông qua các điều luật định nghĩa giới hạn cần thiết của tự do ngôn luận để bảo vệ, bao gồm nhưng không hạn chế, các vấn đề như an ninh quốc phòng, văn hóa, trẻ vị thành niên, kỹ thuật đặc quyền.Phần 4: Hành pháp không được thành lập truyền thông đại chúng của riêng mình, và tỏ sự thiên vị trong bất cứ ngành nào của nền truyền thông đại chúng từ bất cứ nguồn gốc nào.ĐIỀU II: BẢO VỆ NHÂN PHẨMPhần 1: Không ai trong Nền Cộng hòa được phép kết thúc đời sống của một người khác. Không có bản án tử hình cho bất cứ trọng tội nào.Phần 2: Không được phá thai khi bào thai được 8 tuần hoặc lớn hơn.Phần 3: Chính phủ phải cung cấp lương thực căn bản và nơi tạm trú cho mọi người dân nào do bệnh tật hoặc nghèo khó mà không có nơi nương tựa và không có thực phẩm.Phần 4: Ít nhất 20% ngân sách quốc gia và thành phố phải được chi dụng vào an sinh xã hội, ngoại trừ vào y tế.Phần 5: Mọi nhân viên y tế phải làm việc một ngày trong tuần không có lương, chỉ với tiền đền bù cho việc di chuyển do chính phủ trả, để phục vụ các người dân không thể trả chi phí y tế.Phần 6: Sẽ không có thuế thu nhập cho các nhân viên y tế và các nhân viên ngành giáo dục cho thu nhập trực tiếp từ việc cung cấp y tế và giáo dục.Phần 7: Ít nhất 20% ngân sách quốc gia và thành phố phải được chi dụng vào y tế và các ngành liên quan.ĐIỀU III: QUYỀN TỰ DO VÀ BẦU CỬPhần 1: Mọi công dân Việt Nam bằng hoặc trên 18 tuổi có quyền công dân hợp pháp đều có quyền đi bầu và quyền này phải được tôn trọng toàn vẹn bởi chính phủ quốc gia và thành phố.Phần 2: Mọi người đều có quyền tự do phát triển cá tánh của mình miễn là không vi phạm các quyền lợi của người khác, không vi hiến, và không vi phạm các tiêu chuẩn đạo đức.ĐIỀU IV: BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬTPhần 1: Mọi người đều binh đẳng trước pháp luật.Phần 2: Nam nữ bình quyền.Phần 3: Không ai có thể bị đối xử xấu hoặc tốt hơn thường lệ vì lý do giới tính, thành phần gia đình, chủng tộc, sắc tộc, ngôn ngữ, xuất thân từ quốc gia nào, đức tin, tôn giáo, hoặc tư tưởng chính trị.ĐIỀU V: TỰ DO TÍN NGƯỠNG, LƯƠNG TÂM, VÀ TÔN GIÁOPhần 1: Quyền tự do tín ngưỡng, lương tâm, và tôn giáo đều bất khả xâm phạm.Phần 2: Không ai từ 18 tuổi trở lên có thể bị ép buộc làm việc gì trái lương tâm họ.ĐIỀU VI: TỰ DO HỌC HỎIPhần 1: Toàn bộ nền giáo dục do chính phủ quốc gia quản trị.Phần 2: Không một thầy cô nào bị buộc phải dạy tôn giáo trái ý muốn họ.Phần 3: Trường tư không được thiên vị về tôn giáo, sắc tộc.Phần 4: Giáo dục từ mẫu giáo đến lớp 9 hoàn toàn miễn phí và bắt buộc.Phần 5: Ít nhất 20% ngân quỹ quốc gia và thành phố phải được chi dụng cho giáo dục.ĐIỀU VII: TỰ DO HỘI HỌPPhần 1: Tất cả người Việt Nam đều được quyền hội họp yên ổn cá nhân, không cần xin phép chính phủ quốc gia và thành phố.Phần 2: Mọi sự hội họp tôn giáo đều được tự do tổ chức, nhưng chỉ trong các khu vực thờ phượng.Phần 3: Các cuộc biểu tình tôn giáo tại nơi công cộng đều bị tuyệt đối nghiêm cấm.Phần 4: Các cuộc biểu tình chính trị ôn hòa đều được tự do tổ chức, nhưng phải xin phép chính quyền địa phương trước 7 ngày, và được cho phép 3 ngày trước khi xảy ra.Phần 5: Trong mọi cuộc hội họp, tất cả mọi điều luật, bao gồm nhưng không hạn định các điều như an ninh công cộng, phòng chống hỏa hoạn, giao thông đường phố, tiêu chuẩn đạo đức, quyền tự bảo vệ nhân phẩm, đều phải được tôn trọng.ĐIỀU VIII: TỰ DO DI CHUYỂNPhần 1: Tất cả mọi người Việt Nam đều có quyền di chuyển mọi nơi tại Việt Nam, không cần xin phép chính phủ quốc gia và thành phố.Phần 2: Quyền di chuyển bị hạn chế chỉ trong trường hợp theo các điều khoản luật pháp, bao gồm nhưng không hạn định các điều như trong trường hợp có thể có nguy hiểm trong khu vực do thiên tai, chiến tranh, ôn dịch, tai nạn. Trong mọi trường hợp, các sự hạn chế sẽ được ban bố cho tất cả mọi người.ĐIỀU IX: TỰ DO THÀNH LẬP HỘI ĐOÀNPhần 1: Tất cả mọi người đều được quyền thành lập hội đoàn, xã đoàn, không cần xin phép chính phủ quốc gia và thành phố.Phần 2: Tất cả hội đoàn, xã đoàn, đều phải tuân thủ Hiến pháp và các điều luật được chính phủ quốc gia và thành phố nơi họ hoạt động thông qua.ĐIỀU X: TÀI SẢN VÀ BẤT ĐỘNG SẢN CÁ NHÂN ĐỀU BẤT KHẢ XÂM PHẠMPhần 1: Tài sản và bất động sản thuộc về cá nhân đều được quyền bất khả xâm phạm. Trong trường hợp ngoại lệ như khi có chiến tranh hoặc khi có sự tối cần thiết để phục vụ nhân dân, Quốc hội hoặc chính phủ địa phương có thể thông qua các điều khoản nhằm quốc hữu hóa tài sản và bất động sản cá nhân nhưng các tài sản này chỉ được phục vụ cho lợi ích quảng đại quần chúng mà thôi. Các sự đền bù thích ứng phải được trả cho các chủ tài sản cá nhân này.Phần 2: Các cuộc lục soát chinh thức chỉ có thể được thi hành khi một vị Thẩm phán cho phép, hoặc trong trường hợp khẩn cấp khi một sự chậm trễ sẽ gây thiệt hại về tài sản hoặc nhân mạng không thể vãn hồi. Các sự đền bù thích ứng phải được trả cho các chủ nhân tài sản nếu việc lục soát gây ra thiệt hại tài sản hoặc sức khỏe cho họ.ĐIỀU XI: QUYỀN ĐƯỢC KIỆN TỤNGPhần 1: Tất cả mọi người Việt Nam đều được quyền bất đồng ý kiến và phản đối công khai bất cứ điều khoản luật lệ nào, hoặc bất cứ công chức nào trong chính phủ quốc gia và thành phố. Tuy nhiên tất cả mọi người Việt Nam đều phải tuân thủ các luật lệ này cho đến khi chúng được rút lại qua các phương cách thích hợp, hoặc phải tuân theo các điều lệnh của các công chức đó cho đến khi họ bị dời đi khỏi chức vụ bởi một quyền lực hợp pháp.Phần 2: Tất cả mọi người Việt Nam đều có quyền được kiện tụng để thay đổi các điều luật, hoặc thay thế bất cứ công chức nào, cho dù người đó có được bầu hay không, miễn là quá trình kiện tụng phải ôn hòa và qua các cấp chính quyền thích hợp.Phần 3: Tất cả mọi người bất đồng ý kiến, phản đối, và kiện tụng trong Phần 1 và 2 của Điều luật này đều được bảo đảm rằng họ sẽ được Bản Hiến Pháp bảo vệ khỏi bất cứ hành động và lời nói trả thù nào bởi tất cả mọi viên chức chính phủ.ĐIỀU XII: HẠN ĐỊNH CỦA NHÂN QUYỀNPhần 1: Một số viên chức nào đó trong chính quyền quốc gia và thành phố có thể không được hưởng tất cả mọi quyền lực kể ra trong Chương này, chẳng hạn như số người phục vụ trong quân đội sẽ bị hạn chế trong việc nói lên ý kiến họ về một số vấn đề an ninh quốc gia. Quốc hội sẽ thông qua các điều khoản luật lệ chi tiết được kể ra trong Phần 1 này.Phần 2: Quốc hội sẽ thông qua các điều khoản luật lệ, bao gồm chứ không hạn định trong việc bảo vệ quyền được tự vệ, tiêu chuẩn đạo đức, văn hóa, lễ nghi phép tắc. Các điều khoản luật lệ này sẽ đặt ranh giới xung quanh nhân quyền nhắm đem lại lợi ích tốt nhất cho số đông người nhất.Phần 3: Một nhân quyền nào đó có thể được hạn định bởi hoặc tùy theo một điều luật định, nhưng điều luật này sẽ áp dụng cho mọi người chứ không chỉ cho một số cá nhân riêng lẻ nào.
CHƯƠNG II: CÁC THÀNH PHỐĐIỀU I: Quyền lực trong Nền Cộng Hòa sẽ được phân bố khắp địa phương, do đó nhân dân trong khắp 64 Thành phố sẽ được quyền tự chọn ra lãnh đạo Thành phố, đặt các sắc thuế riêng của Thành phố, thông qua các điều luật riêng miễn là mọi việc đều phải hợp hiến và theo các điều luật quốc gia.ĐIỀU II: Trong mọi Thành phố, người dân sẽ được đại diện bởi một chính quyền Thành phố được chọn bởi các cuộc bỏ phiếu phổ thông, trực tiếp, tự do, công bằng, và kín đáo.ĐIỀU III: Các Thành phố sẽ có quyền và trách nhiệm tự điều hành tất cả mọi vấn đề địa phương trong giới hạn luật pháp. Các hội đoàn địa phương cũng được quyền tự quản trị theo luật định, trong giới hạn hoạt động cho phép bởi luật pháp.ĐIỀU IV: Mọi Thành phố đều có quyền gởi một Dân biểu cho mỗi 250 ngàn dân, làm tròn đến số 250 ngàn gần nhất, đến Hội đồng Quốc gia, và tổng cộng 2 Thượng Nghị sĩ đến Thượng Viện.ĐIỀU V: Các Thành phố không được lập Hiệp ước, Khối Liên minh, với bất cứ thành phố, lãnh thổ, quốc gia nào bên ngoài Việt Nam.ĐIỀU VI: Các Thành phố không được phép in tiền, bán công khố phiếu, hoặc tự tạo ra bất cứ loại hình tiền tệ hoặc tín dụng nào.ĐIỀU VII: Các Thành phố không được phép thu thuế trên các mặt hàng hoặc sản phẩm đi ngang qua vùng đất của họ. Cũng không được đặt ra các loại thuế xuất nhập khẩu.ĐIỀU VIII: Các Thành phố không được giữ quân đội, tàu chiến, hoặc có sự đồng thuận hay tương hổ nào về mặt quân sự với bất cứ quốc gia nào, hoặc tự tham gia chiến tranh, trừ khi thật sự đã bị hoặc sắp bị xâm lăng. Trong các trường hợp đó, chính phủ quốc gia phải được thông báo trong vòng ba giờ đồng hồ sau khi việc đó xảy ra.
CHƯƠNG III: NGÀNH TƯ PHÁPĐIỀU I: Tối cao Pháp viện sẽ có 9 vị Thượng Thẩm Phán, với vị Tối Thượng Thẩm Phán là vị được bầu lên bởi một tỉ lệ phiếu bầu cao nhất khi được bầu vào Tối Cao Pháp Viện. Mỗi hai năm một lần, ba chức vụ Thượng Thẩm Phán được bầu lên. Các vị Thượng Thẩm Phán chỉ có thể phục vụ tối đa hai nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ sáu năm.ĐIỀU II: QUYỀN LỰC CỦA TỐI CAO PHÁP VIỆNPhần 1: Tối cao Pháp viện xem xét hoạt động của Văn phòng Tổng thống, Thượng viện, và Hội đồng Quốc gia.Phần 2: Trong trường hợp xét thấy có bất cứ sự vi phạm Hiến Pháp nào từ các bộ phận đó, các vị Thượng Thẩm Phán sẽ trước tiên là cho biết ý kiến, luôn luôn bằng văn bản, cảnh cáo về sự vi phạm. Nếu sự vi phạm đó tiếp tục, các vị Thượng Thẩm Phán sẽ phải cho tiến hành một cuộc điều tra và việc này có thể dẫn đến sự Khiển trách, hoặc Yêu cầu Truất nhiệm nhân vật vi phạm.Phần 3: Tối cao Pháp viện sẽ có quyền lực cao hơn hết tất cả mọi tòa án trong Nền Cộng hòa, trong việc xem xét tất cả các điều luật được thông qua trong cấp quốc gia và thành phố, cùng với các việc làm của Hành pháp, để quyết định xem các việc này có tuân thủ Hiến Pháp Nền Đệ Tam Cộng hòa Việt Nam hay không.Phần 4: Tối cao Pháp viện sẽ có quyền lực giải thích mọi vấn đề xảy ra trước và sau khi có Bản Hiến Pháp, bộ luật, và hiệp ước của Nền Đệ Tam Cộng hòa Việt Nam.Phần 5: Liên quan đến Phần 4 của Điều II tại đây, trong trường hợp một đa số trong Tối cao Pháp viện xét thấy rằng một điều luật hay hiệp ước nào đó được thông qua trước đây bởi Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là vi phạm Bản Hiến Pháp của Nền Đệ Tam Cộng hòa Việt Nam, thi Tối cao Pháp viện sẽ đề nghị Quốc hội thay đổi điều luật này bằng một điều luật khác, hoặc đàm phán ký kết một hiệp ước khác vì điều luật hoặc hiệp ước cũ không còn hợp hiến nữa và do đó phải bị hủy bỏ.Phần 6: Bởi một đa số 6 phiếu, các vị Thượng Thẩm Phán có thể truất nhiệm một vị Thượng Thẩm Phán ra khỏi Tối cao Pháp viện nếu vị này bị xét thấy có tội nặng hoặc có cách hành xử không thích hợp. Tổng thống, khi đó, sẽ có quyền đề cử một vị Thượng Thẩm Phán khác để thay thế và vị này phải được Thượng viện đồng ý bởi một đa số phiếu. Vị này sẽ nhận nhiệm sở cho đến ngày Tổng Tuyển cử gần nhất, khi đó chức vụ này sẽ được bầu lại theo một nhiệm kỳ mới hoặc để chu toàn phần còn lại của nhiệm kỳ vị bị truất nhiệm nếu nhiệm kỳ này còn thêm vài năm.ĐIỀU III: LƯƠNG BỔNG VÀ ĐẶC QUYỀN CỦA CÁC THƯỢNG THẨM PHÁNPhần 1: Trong thời gian nhiệm chức, các Thượng Thẩm Phán không được có bất cứ chức vụ dân sự hoặc công quyền nào khác, hoặc nhận bất cứ lương bổng nào ngay cả cho các sự phục vụ dân sự hoặc công quyền trước khi được bầu vào chức vụ. Các lương bổng này phải được bỏ vào một quỹ phó thác, và được giao lại cho các Thượng Thẩm Phán 10 năm sau khi rời chức vụ. Nếu một vị Thượng Thẩm Phán nào đó rời chức vụ do bị truất nhiệm, số lương bổng này sẽ được xử dụng cho lợi ích công cộng.Phần 2: Các Thượng Thẩm Phán không được nhận bất cứ chức vụ hoặc bất cứ lương bổng nào trong lãnh vực dân sự trong vòng 10 năm sau khi rời chức vụ. Trong thời gian 10 năm này, các Thượng Thẩm Phán sẽ nhận 65% lương bổng theo trị giá lương nhận được lần cuối trong thời gian nhiệm chức.Phần 3: Trong thời gian nhiệm chức và trong 10 năm sau khi rời nhiệm sở, các Thượng Thẩm Phán không được nhận bất cứ món quà, lương bổng, chức vụ, danh hiệu, từ bất cứ cá nhân hoặc bất cứ quốc gia nào. Một vài ngoại lệ đặc biệt có thể được cho phép trong từng trường hợp, và phải do phiếu bầu đa số tại Quốc hội cho phép.Phần 4: Chỉ với một đa số 6 lá phiếu tại Tối cao Pháp viện mới có thể truất nhiệm một Thượng Thẩm Phán.Phần 5: Không một Thượng Thẩm Phán nào, ngoại trừ trường hợp phản quốc hoặc trọng tội, bị cấm phát biểu ý kiến tại diễn đàn nhiệm sở họ đang phục vụ.Phần 6: Không một Thượng Thẩm Phán nào có thể bị truy tố, điều tra, bắt, giam giữ hoặc xử tội vì các ý kiến đưa ra hoặc phiếu bầu trong khi thi hành nhiệm vụ.Phần 7: Trong khi các Thượng Thẩm Phán còn trong nhiệm kỳ, tất cả các tố tụng dân sự chống lại họ đều không được xem xét cho đến khi họ phục vụ xong nhiệm kỳ. Các giới hạn thời gian tố tụng được ngưng lại trong thời gian họ còn trong nhiệm kỳ.Phần 8: Việc miễn nhiễm này không áp dụng cho các cuộc tố tụng hình sự, khi đó vị Thượng Thẩm Phán có thể được tạm ngưng chức vụ theo một đa số phiếu bầu tại Hội đồng Quốc gia, ngõ hầu vị này có thể chống lại cuộc tố tụng. Nếu được trắng án, vị này có thể trở lại làm việc nếu vẫn còn nhiệm kỳ. Nếu bị xét thấy có tội và bị phạt tù thì vị này phải từ chức.Phần 9: Các Thượng Thẩm Phán phải là công dân Việt Nam, tối thiểu 35 tuổi.
CHƯƠNG IV: NGÀNH LẬP PHÁPĐIỀU I: QUYỀN HẠN CỦA NGÀNH LẬP PHÁPPhần 1: Tất cả quyền hành Lập pháp quy thuộc về Quốc hội, bao gồm Thượng viện và Hội đồng Quốc gia. Quốc hội phải tuân thủ triệt để Bản Hiến Pháp trong nhiệm vụ Lập pháp.Phần 2: Thượng viện và Hội đồng Quốc gia đều có quyền bắt đầu tiến trình truất nhiệm Tổng thống bởi một đa số phiếu. Vị Tối Thượng Thẩm Phán phải được thông báo ngay sau khi đa số phiếu truất nhiệm được thông qua. Trong vòng 7 ngày, tiến trình truất nhiệm sẽ bắt đầu hoạt động và sẽ kéo dài không quá 7 ngày.Phần 3: Lá phiếu truất nhiệm Tổng thống phải được bầu bởi mọi thành viên Quốc hội. Một đa số 2/3 phải được thông qua. Nếu không có được đa số này thì việc truất nhiệm cho cùng một vấn đề sẽ không được bắt đầu trong vòng một năm sau ngày bỏ phiếu truất nhiệm.Phần 4: Phán quyết trong trường hợp truất nhiệm Tổng thống sẽ không vượt quá việc buộc rời khỏi chức vụ, và mất quyền phục vụ trong mọi văn phòng có tính danh dự, trọng tín nghĩa và có lợi nhuận trong Nền Cộng hòa. Vị Tổng thống bị truất nhiệm sẽ không chịu trách nhiệm và không là mục tiêu cho các cuộc tố cáo, định tội, và trừng phạt khác.ĐIỀU II: ĐIỀU LỆ CỦA NGÀNH LẬP PHÁPPhần 1: Thượng viện, trước khi bắt đầu làm việc, phải chọn trong số các Thượng Nghị sĩ một vị làm Phát Ngôn Viên Thượng viện, và khi vị này vì lý do nào đó phải từ chức thì Thượng viện sẽ chọn ra một vị khác làm việc này.Phần 2: Khi một Thượng Nghị sĩ muốn từ chức, vị này phải thông báo cho Phát Ngôn Viên Thượng viện biết. Nếu Phát Ngôn Viên Thượng viện muốn từ chức thì vị này phải thông báo cho toàn bộ Thượng viện biết.Phần 3: Ghế Thượng Nghị sĩ có thể bị bỏ trống nếu một Thượng Nghị sĩ nào đó vắng mặt 61 lần bỏ phiếu trở lên trong nhiệm kỳ. Trong vòng 30 ngày, Thành phố mà vị đó đại diện phải gởi lên Thượng viện một Thượng Nghị sĩ khác, nếu không ghế này sẽ để trống đến kỳ Tổng Tuyển cử sau.Phần 4: Thượng viện sẽ tự tổ chức các Ủy ban và bầu ra các Chủ tịch các Ủy ban này, theo phiếu bầu đa số.Phần 5: Hội đồng Quốc gia, trước khi bắt đầu làm việc, phải chọn trong số các Dân biểu một vị làm Phát Ngôn Viên Hội đồng Quốc gia, và khi vị này vì lý do nào đó phải từ chức thì Hội đồng Quốc gia sẽ chọn ra một vị khác làm việc này.Phần 6: Khi một Dân biểu muốn từ chức, vị này phải thông báo cho vị Phát Ngôn Viên Hội đồng Quốc gia biết. Nếu Phát Ngôn Viên của Hội đồng Quốc gia muốn từ chức thì vị này phải thông báo cho toàn bộ Hội đồng Quốc gia biết.Phần 7: Ghế Dân biểu có thể bị bỏ trống nếu một Dân biểu nào đó vắng mặt 31 lần bỏ phiếu trở lên trong nhiệm kỳ. Trong vòng 30 ngày, Thành phố mà vị đó đại diện phải gởi lên Hội đồng Quốc gia một Dân biểu khác, nếu không ghế này sẽ để trống đến kỳ Tổng Tuyển cử sau.Phần 8: Hội đồng Quốc gia sẽ tự tổ chức các Ủy ban và bầu ra các Chủ tịch các Ủy ban này, theo phiếu bầu đa số.ĐIỀU III: LƯƠNG BỔNG VÀ ĐẶC QUYỀN CỦA NGÀNH LẬP PHÁPPhần 1: Không một Thượng Nghị sĩ hoặc Dân biểu nào trong thời gian nhiệm chức được quyền giữ thêm bất cứ chức vụ dân sự hoặc công quyền nào khác, hoặc nhận bất cứ lương bổng nào ngay cả cho các sự phục vụ dân sự hoặc công quyền trước khi được bầu vào chức vụ. Các lương bổng này phải được bỏ vào một quỹ phó thác, và được giao lại cho đương sự 10 năm sau khi rời chức vụ. Nếu đương sự rời chức vụ do bị truất nhiệm, số lương bổng này sẽ được xử dụng cho lợi ích công cộng.Phần 2: Không một Thượng Nghị sĩ hoặc Dân biểu nào được nhận bất cứ chức vụ hoặc bất cứ lương bổng nào trong lãnh vực dân sự trong vòng 10 năm sau khi thôi chức vụ tại Quốc hội. Trong thời gian 10 năm này, các vị này sẽ nhận 65% lương bổng theo trị giá lương nhận được lần cuối tại Quốc hội.Phần 3: Không một Thượng Nghị sĩ hoặc Dân biểu nào trong thời gian nhiệm chức và trong 5 năm sau khi rời nhiệm sở được phép nhận bất cứ món quà, lương bổng, chức vụ, danh hiệu, từ bất cứ cá nhân hoặc bất cứ quốc gia nào. Một vài ngoại lệ đặc biệt có thể được cho phép trong từng trường hợp, và phải do phiếu bầu đa số tại nhiệm sở họ đang phục vụ.Phần 4: Không một Thượng Nghị sĩ hoặc Dân biểu nào, ngoại trừ trường hợp phản quốc hoặc trọng tội, bị cấm phát biểu ý kiến tại diễn đàn nhiệm sở họ đang phục vụ.Phần 5: Một vị Thượng Nghị sĩ hoặc Dân biểu chỉ có thể bị truất nhiệm bằng một trong hai cách: (1) bằng 2/3 số phiếu đồng ý truất nhiệm bởi dân chúng trong Thành phố họ, và (2) bởi 2/3 số phiếu đồng ý truất nhiệm bởi các Thượng Nghị sĩ hoặc Dân biểu nơi họ đang phục vụ.Phần 6: CácThượng Nghị sĩ và Dân biểu phải là công dân Việt Nam, ít nhất 30 tuổi, và không cần phải từng sống trong Thành phố họ đang đại diện.Phần 7: Phó Tổng thống sẽ là Chủ tịch Thượng viện, nhưng không được bỏ phiếu trừ khi có số phiếu Thuận và Chống bằng nhau.Phần 8: Thủ tướng sẽ là Chủ tịch Hội đồng Quốc gia, nhưng không được bỏ phiếu trừ khi có số phiếu Thuận và Chống bằng nhau.Phần 9: Không một nhân vật Quốc hội nào có thể bị truy tố, điều tra, bắt, giam giữ hoặc xử tội vì các ý kiến đưa ra hoặc phiếu bầu trong khi thi hành nhiệm vụ.Phần 10: Trong khi các nhân vật Quốc hội còn trong nhiệm kỳ, tất cả các tố tụng dân sự chống lại họ đều không được xem xét cho đến khi họ phục vụ xong nhiệm kỳ. Các giới hạn thời gian tố tụng được ngưng lại trong thời gian họ còn trong nhiệm kỳ.Phần 11: Việc miễn nhiễm này không áp dụng cho các cuộc tố tụng hình sự, khi đó nhân vật Quốc hội có thể được tạm ngưng chức vụ theo một đa số phiếu bầu trong Viện vị đó đang phục vụ, ngõ hầu vị này có thể chống lại cuộc tố tụng. Nếu được trắng án, vị này có thể trở lại làm việc nếu vẫn còn nhiệm kỳ. Nếu bị xét thấy có tội và bị phạt tù thì vị này phải từ chức.
CHƯƠNG V: NGÀNH HÀNH PHÁPĐIỀU I: NHIỆM VỤ CỦA TỔNG THỐNGPhần 1: Nhiệm vụ chính của Tổng thống như là Nhân viên phục vụ hàng đầu của Nền Cộng hòa sẽ là đứng đầu ngành Hành pháp qua việc thực thi các điều luật do Quốc hội thông qua. Trong tiến trình này, Tổng thống phải bảo đảm tất cả mọi điều luật, và lệnh hành pháp ông đưa ra, phải tuân theo Hiến Pháp. Khi có nảy sinh nghi vấn về một điều luật nào đó, hay một lệnh hành pháp nào đó có hợp hiến hay không, Tổng thống phải gởi lời yêu cầu được giải thích qua Tối cao Pháp viện. Trong các trường hợp như vậy, Tổng thống sẽ phải tuân theo lời giải thích theo ý kiến đa số tại Tối cao Pháp viện.Phần 2: Tổng thống phải đứng ra bảo đảm cho nền độc lập quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, và thực thi các bản hiệp ước.Phần 3: Trừ khi có điều bất đồng, Tổng thống phải phê chuẩn và thực thi các Nghị quyết Quốc hội trong vòng 15 ngày sau khi được thông qua.Phần 4: Liên quan đến Phần 3, Điều 1 trên đây, trước thời hạn 15 ngày sau khi được Quốc hội thông qua, Tổng thống có quyền yêu cầu Quốc hội tái tranh luận toàn bộ hoặc một phần bản Nghị quyết. Các lời yêu cầu như vậy phải được Quốc hội chấp thuận.Phần 5: Liên quan đến Phần 3, Điều 1 trên đây, Tổng thống không thể thay đổi bất cứ điểm nào trong Nghị quyết Quốc hội, nhưng có thể phủ quyết toàn bộ. Trong trường hợp Tổng thống phủ quyết, nếu có số phiếu thuận ít nhất 2/3 tổng số phiếu, Quốc hội có thể bác bỏ quyền phủ quyết của Tổng thống. Nếu bị bác bỏ quyền phủ quyết trong Nghị quyết đang tranh cãi, Tổng thống phải ký tên phê chuẩn bản Nghị quyết để trở thành Luật, và phải ban hành, thực thi điều Luật này không được chậm trễ.Phần 6: Tổng thống phải điều đình các hiệp ước quốc tế, bằng cách chủ tọa các ủy ban đặc biệt. Các ủy ban này có trách nhiệm trông coi các vấn đề thường ngày. Tổng thống phải tham khảo thường xuyên với các ủy ban thích hợp tại Thượng viện, ngõ hầu sau khi được thỏa thuận các hiệp ước này sẽ được thông qua mau chóng tại Thượng viện.Phần 7: Tổng thống có quyền hành, bởi và với sự tư vấn và đồng ý của Thượng viện, lập các bản hiệp ước quốc tế, với điều kiện được Thượng viện thông qua với số phiếu thuận đạt ít nhất 2/3 tổng số phiếu. Ngoài ra Tổng thống cũng, bởi và với sự tư vấn và đồng ý của Thượng viện, chỉ định đại sứ và lãnh sự đại diện cho Nền Cộng hòa trên khắp thế giới.Phần 8: Tổng thống là Tổng Tư Lệnh của quân đội. Tổng thống chủ trì các ủy ban và hội đồng quốc phòng tối cao. Tổng thống có quyền phủ quyết trong việc tăng chức, thay thế, hoặc truất nhiệm các tướng lãnh quân đội theo sự đề nghị của Thủ tướng.Phần 9: Tổng thống có quyền khởi động can thiệp quân sự chống lại một quốc gia khác.Phần 10: Liên quan đến Phần 9, Điều I trên đây, Tổng thống phải thông báo cho Quốc hội về quyết định quân sự trong vòng 3 ngày sau khi việc đó xảy ra. Trong vòng 7 ngày, một đa số 2/3 tại cuộc họp khoáng đại Lưỡng viện Quốc hội sẽ công bố ủng hộ hoặc không ủng hộ quyết định dùng quân sự của Tổng thống.Phần 11: Liên quan đến Phần 10, Điều I trên đây, nếu một quyết định không ủng hộ được Quốc hội công bố, Tổng thống sẽ có 7 ngày để làm việc với Quốc hội về các khác biệt quan điểm. Nếu sau 7 ngày vẫn không có được sự đồng thuận, một cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc sẽ được tổ chức trong vòng 14 ngày xem có nên tiếp tục chiến tranh hay không. Kết quả cuộc trưng cầu dân ý sẽ là quyết định cuối cùng, cả Quốc hội và Tổng thống phải tuân lệnh nhân dân, không được chậm trễ.Phần 12: Vào bất kỳ thời điểm nào, Tổng thống hoặc 2/3 đa số tại Quốc hội đều có thể quyết định tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý xảy ra 30 ngày sau quyết định đó. Một đa số 2/3 trở lên của cuộc trưng cầu dân ý sẽ là kết quả cuối cùng của mọi vấn đề quốc gia.Phần 13: Chỉ Tổng thống mới có quyền thay thể Thủ tướng. Trong vòng 30 ngày sau khi được bầu lên, Tổng thống vừa được bầu phải chỉ định xong tất cả mọi Bộ trưởng trong chính phủ. Trước Ngày Đăng Danh tức là ngày thứ Ba lần hai trong tháng Giêng của năm sau cuộc bầu cử, tất cả các Bộ trưởng sẽ phải hoàn tất việc nhận nhiệm sở của họ.Phần 14: Bất cứ khi nào có ghế trống trong chức vụ Phó Tổng thống, Tổng thống phải đề cử một Phó Tổng thống khác và vị này sẽ phải được đa số phiếu thuận tại Lưỡng viện Quốc hội thông qua mới có thể nhiệm chức.ĐIỀU II: ĐIỀU LỆ CỦA CHỨC VỤ TỔNG THỐNGPhần 1: Tổng thống, Phó Tổng thống, và Thủ tướng phải cùng chung một liên danh ứng cử.Phần 2: Tổng thống chỉ có thể tái ứng cử một lần.Phần 3: Trong trường hợp Tổng thống rời khỏi chức vụ do bị truất nhiệm, qua đời, hoặc từ chức, Phó Tổng thống sẽ trở thành Tổng thống.Phần 4: Bất cứ khi nào Tổng thống viết cho Phát Ngôn viên Thượng viện và Hội đồng Quốc gia về việc ông không đủ khả năng tiếp tục đảm đương các trọng trách, Phó Tổng thống sẽ tiếp nhận chức Tổng thống Tạm nhiệm, cho đến khi Lưỡng viện Quốc hội bầu chấp thuận hoặc từ chối việc Tổng thống từ chức. Một đa số 2/3 sẽ cần thiết cho một trong hai quyết định này.Phần 5: Sự truyền nối của chức vụ Tổng thống như sau: Phó Tổng thống, Phát Ngôn viên Thượng viện, Phát Ngôn viên Hội đồng Quốc gia, Tối Thượng Thẩm phán, và tám vị Thượng Thẩm phán theo phần trăm từ cao xuống thấp của số phiếu bầu nhận được khi được bầu vào chức vị.Phần 6: Liên quan đến Phần 5 của Điều II trên đây, Tổng thống mới sẽ chỉ định Phó Tổng thống mới trong cùng một đảng chính trị của Tổng thống được nhân dân bầu lên, và vị Phó Tổng thống này sẽ phải được đa số phiếu thuận tại Lưỡng viện Quốc hội thông qua mới có thể nhiệm chức.Phần 7: Tất cả chi phí hành chính kể cả lương bổng của tất cả nhân viên chính phủ quốc gia không được quá 10% ngân sách.ĐIỀU II: LƯƠNG BỔNG VÀ ĐẶC QUYỀN TỔNG THỐNGPhần 1: Trong thời gian nhiệm chức, Tổng thống không được có bất cứ chức vụ dân sự hoặc công quyền nào khác, hoặc nhận bất cứ lương bổng nào ngay cả cho các sự phục vụ dân sự hoặc công quyền trước khi được bầu vào chức vụ. Các lương bổng này phải được bỏ vào một quỹ phó thác, và được giao lại cho Tổng thống 10 năm sau khi rời chức vụ. Nếu Tổng thống rời chức vụ do bị truất nhiệm, số lương bổng này sẽ được xử dụng cho lợi ích công cộng.Phần 2: Tổng thống không được nhận bất cứ chức vụ hoặc bất cứ lương bổng nào trong lãnh vực dân sự trong vòng 10 năm sau khi rời chức vụ. Trong thời gian 10 năm này, Tổng thống sẽ nhận 65% lương bổng theo trị giá lương nhận được lần cuối trong thời gian nhiệm chức.Phần 3: Trong thời gian nhiệm chức và trong 10 năm sau khi rời nhiệm sở, Tổng thống không được nhận bất cứ món quà, lương bổng, chức vụ, danh hiệu, từ bất cứ cá nhân hoặc bất cứ quốc gia nào. Một vài ngoại lệ đặc biệt có thể được cho phép trong từng trường hợp, và phải do phiếu bầu đa số tại Quốc hội cho phép.Phần 4: Chỉ với một đa số 2/3 tại Lưỡng viện Quốc hội mới có thể truất nhiệm Tổng thống. Việc này phải được vị Tối Thượng Thẩm Phán chủ tọa.Phần 5: Tổng thống phải là công dân Việt Nam, tối thiểu 35 tuổi.
CHƯƠNG VI: CHỨC VỤ THỦ TƯỚNGĐIỀU I: NHIỆM VỤ CỦA THỦ TƯỚNGPhần 1: Thủ tướng, dưới sự giám sát của Tổng thống, điều hành tất cả công việc nội bộ của Nền Cộng hòa.Phần 2: Thủ tường là Phó Tổng Tư lệnh quân đội, có nhiệm vụ giám sát Thống tướng Tư lệnh quân đội.Phần 3: Thủ tướng bảo đảm việc thi hành luật pháp trong quốc gia.Phần 4: Thủ tướng có quyền đặt ra quy tắc, điều lệ, căn cứ theo các điều luật đã được Quốc hội thông qua. Thủ tướng có quyền chỉ định các chức vụ trong chính phủ và quân đội, bao gồm các Bộ trưởng và Tướng lãnh.Phần 5: Thủ tướng có quyền đề xướng các bộ luật.ĐIỀU II: LƯƠNG BỔNG VÀ ĐẶC QUYỀN THỦ TƯỚNGPhần 1: Trong thời gian nhiệm chức, Thủ tướng không được có bất cứ chức vụ dân sự hoặc công quyền nào khác, hoặc nhận bất cứ lương bổng nào ngay cả cho các sự phục vụ dân sự hoặc công quyền trước khi được bầu vào chức vụ. Các lương bổng này phải được bỏ vào một quỹ phó thác, và được giao lại cho Thủ tướng 10 năm sau khi rời chức vụ. Nếu Thủ tướng rời chức vụ do bị truất nhiệm, số lương bổng này sẽ được xử dụng cho lợi ích công cộng.Phần 2: Thủ tướng không được nhận bất cứ chức vụ hoặc bất cứ lương bổng nào trong lãnh vực dân sự trong vòng 10 năm sau khi rời chức vụ. Trong thời gian 10 năm này, Thủ tướng sẽ nhận 65% lương bổng theo trị giá lương nhận được lần cuối trong thời gian nhiệm chức.Phần 3: Trong thời gian nhiệm chức và trong 10 năm sau khi rời nhiệm sở, Thủ tướng không được nhận bất cứ món quà, lương bổng, chức vụ, danh hiệu, từ bất cứ cá nhân hoặc bất cứ quốc gia nào. Một vài ngoại lệ đặc biệt có thể được cho phép trong từng trường hợp, và phải do phiếu bầu đa số tại Quốc hội cho phép.Phần 4: Chỉ Tổng thống mới có quyền truất nhiệm Thủ tướng.Phần 5: Thủ tướng phải là công dân Việt Nam, tối thiểu 35 tuổi.
CHƯƠNG VII: BỘ AN NINH QUỐC GIAĐIÊU I: Bộ An ninh Quốc gia có nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, không liên quan đến chinh trị và nhân vật nào đang giữ quyền lực trong quốc gia.ĐIỀU II: Bộ An ninh Quốc gia không được có ý kiến đảng phái. Các cấp lãnh đạo của Bộ An ninh Quốc gia phải chưa từng giữ bất cứ chức vụ công quyền nào do các đảng chính trị cấp cho, và không được tranh cử vào bất cứ chức vụ chính trị nào trong vòng 10 năm sau khi rời Bộ An ninh Quốc gia vì bất cứ lý do nào.ĐIỀU III: Tổng thống bị nghiêm cấm triệt để trong việc xử dụng Bộ An ninh Quốc gia cho lợi ích riêng hoặc lợi ích của đảng phái Tổng thống. Nếu vi phạm, việc này sẽ là lý do để Quốc hội điều tra độc lập và nếu xét thấy có tội, Tổng thống có thể bị truất nhiệm bởi đa số 2/3 tại Quốc hội.ĐIỀU IV: Ít nhất 20% ngân sách quốc gia và thành phố phải được chi dụng vào các ngành bảo vệ an ninh quốc gia.ĐIỀU V: BA NGÀNH CỦA BỘ AN NINH QUỐC GIAPhần 1: Quân đội* 1.1. Quân đội được chia ra làm năm nhánh: Hải quân, Lục quân, Không quân, Lực lượng quân đội bí mật, và Nội vụ quân đội.* 1.2. Mỗi nhánh sẽ có Tư lệnh riêng, là một vị Tướng 4 sao.* 1.3. Vị Thống tướng Tư lệnh sẽ được Thủ tướng chọn ra. Chỉ có một vị Thống tướng Tư lệnh 5 sao duy nhất vào bất cứ thời điểm nào, là vị Tướng cai quản toàn bộ 5 nhánh quân đội và báo cáo trực tiếp lên Thủ tướng.* 1.4. Quyền lực và giới hạn quyền lực của Quân đội sẽ được Quốc hội thông qua bằng các điều luật.Phần 2: Cảnh sát* 2.1. Lực lượng cảnh sát được chia ra làm 4 nhánh: Cảnh sát quốc gia, Cảnh sát địa phương, Cảnh sát bí mật, và Nội vụ Cảnh sát.* 2.2. Quyền lực và giới hạn quyền lực của các Lực lượng Cảnh sát sẽ được Quốc hội thông qua bằng các điều luật.Phần 3: Lực lượng Phản gián Việt Nam* 3.1. Lực lượng phản gián Việt Nam có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho Nền Cộng hòa ở mức độ ngầm và bí mật.* 3.2. Vị Giám đốc cơ quan phản gián Việt Nam phải được chọn bởi Tổng thống, và báo cáo trực tiếp lên Tổng thống.* 3.3. Quyền lực và giới hạn quyền lực của Lực lượng Phản gián Việt Nam sẽ được Quốc hội thông qua bằng các điều luật.
CHƯƠNG VIII: TỔNG TUYỂN CỬ VÀ TRƯNG CẦU DÂN ÝĐIỀU I: Ngoại trừ trường hợp có chiến tranh, thiên tai, hoặc quốc gia nguy biến, trong các trường hợp này Quốc hội sẽ ra điều luật để bầu vào một ngày khác, thông thường ngày thứ Ba đầu tiên của tháng 10 trong năm chẵn sẽ là ngày Tiền Tổng tuyển cử, và thứ Ba đầu tiên của tháng 11 tiếp theo sau đó là ngày Tổng tuyển cử.ĐIỀU II: Các cuộc bầu cử sẽ theo nguyên tắc tự nguyện, trực tiếp, phổ thông, bình đẳng, và kín đáo. Không ai có thể biết một cử tri nào đó đã bầu thuận hoặc chống lại ứng cử viên nào, thuận hoặc chống điều khoản trưng cầu dân ý nào.ĐIỀU III: Mọi công dân của Nền Cộng hòa, từ 18 tuổi trở lên và đang có quyền công dân đầy đủ, đều có quyền bầu (a) một phiếu cho mỗi chức vụ công quyền đang được tranh cử và (b) một phiếu cho mỗi vấn đề đang được trưng cầu dân ý.ĐIỀU IV: Trong ngày Tiền Tổng tuyển cử, các cử tri sẽ bầu chọn ứng cử viên cho Tối cao Pháp viện, Thượng viện, Hội đồng Quốc gia, và Tổng thống. Mỗi địa hạt bầu cử chỉ có thể chọn ứng cử viên trong địa hạt vào Thượng viện và Hội đồng Quốc gia. Ứng cử viên vào chức Thượng Thẩm phán và Tổng thống là cho toàn quốc. Các cử tri cũng sẽ chọn điều khoản nào sẽ được đưa vào cuộc trưng cầu dân ý vào ngày Tổng tuyển cử.ĐIỀU V: Ngoại trừ cuộc bầu cử đầu tiên sau khi Bản Hiến Pháp được thông qua - khi đó 1/3 Thượng Thẩm phán có nhiệm kỳ 2 năm, 1/3 có nhiệm kỳ 4 năm, 1/3 có nhiệm kỳ 6 năm; và 1/2 Thượng Nghị sĩ có nhiệm kỳ 2 năm, 1/2 có nhiệm kỳ 4 năm - theo kết quả cuộc Tiền Tổng tuyển cử, sau đây là các ứng cử viên, điều khoản được đưa vào danh sách trong ngày Tổng tuyển cử:Phần 1: Sáu người có số phiếu bầu cao nhất sẽ ứng cử vào Tối cao Pháp viện.Phần 2: Bốn người có số phiếu bầu cao nhất sẽ ứng cử vào mỗi chức vụ Tổng thống, Thượng Nghị sĩ, Dân biểu.Phần 3: Các điều khoản trưng cầu dân ý nào đạt ít nhất 50% số phiếu.ĐIỀU VI: Ngoại trừ cuộc bầu cử đầu tiên sau khi Bản Hiến Pháp được thông qua, theo kết quả cuộc Tổng tuyển cử, sau đây là các ứng viên trúng tuyển, và các điều khoản trưng cầu dân ý được thông qua:Phần 1: Ba ứng viên có số phiếu bầu cao nhất vào Tối cao Pháp viện.Phần 2: Một ứng viên với số phiếu bầu cao nhất vào các chức vụ: Tổng thống, Thượng Nghị sĩ, Dân biểu. MỗI địa hạt bầu cử sẽ có Thượng Nghị sĩ và Dân biểu riêng, còn Tổng thống cho toàn quốc.Phần 3: Các điều khoản trưng cầu dân ý với phiếu thuận ít nhất 67% trên tổng số phiếu bầu.ĐIỀU VII: Thượng viện sẽ bao gồm Thượng Nghị sĩ từ mỗi thành phố, được chọn trực tiếp bởi nhân dân thành phố.ĐIỀU VIII: Mỗi thành phố, không liên quan đến diện tích và ảnh hưởng, đều được gởi hai Thượng Nghị sĩ vào Thượng viện, vị này sau vị kia hai năm, mỗi nhiệm kỳ bốn năm.ĐIỀU IX: Các Thượng Nghị sĩ không được phục vụ quá hai nhiệm kỳ.ĐIỀU X: Hội đồng Quốc gia sẽ bao gồm các Dân biểu từ mỗi khu vực bầu cử, được trực tiếp bầu lên bởi nhân dân trong khu vực họ đại diện.ĐIỀU XI: Mỗi thành phố sẽ chọn một Dân biểu cho mỗi 250 ngàn người dân, làm tròn số 250 ngàn gần nhất.ĐIỀU XII: Các Dân biểu không được phục vụ quá bốn nhiệm kỳ.ĐIỀU XIII: Các bất đồng ý kiến về bầu cử phải được gởi cho Tối cao Pháp viện để được điều tra.ĐIỀU XIV: Nếu các bất đồng này liên quan đến một hoặc vài vị Thượng Thẩm phán, vị hoặc các vị này sẽ thối lui khỏi các cuộc điều tra và bỏ phiếu. Các vị Thượng Thẩm phán còn lại sẽ bỏ phiếu, và nếu kết quả hòa thì Tổng thống sẽ bỏ lá phiếu quyết định. Mọi quyết định trong tiến trình này đều tối hậu.ĐIỀU XV: Trước ngày Tổng Tuyển cử, nếu bất cứ ứng cử viên nào qua đời hoặc bị tàn tật hay tự rút lui khỏi cuộc bầu cử, đảng phái vị đó sẽ chỉ định một ứng cử viên thay thế trong danh sách cho ngày Tổng Tuyển cử Toàn quốc.
CHƯƠNG IX: TÌNH TRẠNG HỢP PHÁP CỦA BẢN HIẾN PHÁPĐIỀU I: Nếu được phê chuẩn bởi một đa số 2/3 trên tất cả cử tri Việt Nam tại Việt Nam và khắp mọi nơi trên thế giới, Bản Hiến Pháp của Nền Đệ Tam Cộng hòa Việt Nam sẽ thay thế Bản Hiến Pháp của Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, phê chuẩn năm 1992.ĐIỀU II: Tất cả mọi điều khoản luật lệ và hiệp ước được phê chuẩn theo Bản Hiến Pháp mới sẽ thay thế các điều luật được phê chuẩn theo Bản Hiến Pháp trước đây.ĐIỀU III: Quyền Tư pháp trong Nền Đệ Tam Cộng hòa Việt Nam sẽ không được xử dụng trong các việc kiện tụng về luật pháp cũng như tính hợp lý, được khởi sự và khởi tố chống lại một công dân của Nền Đệ Tam Cộng hòa Việt Nam bởi công dân các quốc gia khác.ĐIỀU IV: Mọi người dân có quốc tịch Việt Nam do sinh ra hay do nhập tịch, hoặc là đối tượng của phạm vi quyền hạn như vậy, đều là công dân của Nền Đệ Tam Cộng hòa và của thành phố nơi họ đang cư ngụ.ĐIỀU V: Mọi món nợ đã được cam kết hoặc ghi nhận tại Việt Nam trước khi Bản Hiến Pháp này được phê chuẩn đều tiếp tục có giá trị trong Nền Đệ Tam Cộng hòa, dưới quyền hạn của Bản Hiến Pháp này.ĐIỀU VI: Các bản Hiệp định Hòa bình, Thỏa ước Thương mại, hiệp định và thỏa ước hiện hành có liên quan đến các tổ chức quốc tế đã cam kết tài chánh cho các thành phố, các bản án cho các tù nhân và tù nhân lương tâm, đều sẽ được xem xét lại bởi Quốc hội.ĐIỀU VII: Nền Cộng hòa công nhận quyền hạn của Tòa án Hình sự Quốc tế, theo bản Hiệp ước được ban hành ngày 18 tháng 7 năm 1998.ĐIỀU VIII: Nền Cộng hòa công nhận và sẽ tôn trọng tuyệt đối Bản Thỏa ước Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc, hiệu đính lần cuối vào năm 1997.ĐIỀU IX: Các Hiệp định có liên quan trực tiếp đến toàn vẹn lãnh thổ được ký kết dưới các Bản Hiến Pháp trước đây sẽ được tái tra xét bởi Quốc hội. Trừ khi một đa số 2/3 Quốc hội bỏ phiếu đồng ý, các bản hiệp định này sẽ bị xem như vi hiến và vì vậy sẽ bị hủy bỏ.ĐIỀU X: Tất cả Thượng Nghị sĩ và Dân biểu, và mọi nhân viên Hành pháp và Tư pháp, thuộc chính phủ quốc gia và chính quyền thành phố, đều phải tuyên thệ và cam kết tuân thủ Bản Hiến Pháp này.ĐIỀU XI: Quốc hội có quyền thi hành Bản Hiến Pháp bằng cách ban hành các điều luật thích hợp.
CHƯƠNG X: TIẾN TRÌNH TU CHÍNH HIẾN PHÁPĐIỀU I: Mọi cuộc Tu chính Hiến Pháp chỉ có thể được nhân dân Việt Nam phê chuẩn khi có số phiếu thuận tối thiểu 2/3 trở lên trên tổng số phiếu bầu trong một cuộc Trưng cầu Dân ý toàn quốc.ĐIỀU II: Quốc hội, nếu có số phiếu thuận ít nhất 2/3 trên tổng số phiếu bầu tại Lưỡng viện Quốc hội xét thấy cần thiết, có thể đề nghị Tu chính Hiến Pháp.ĐIỀU III: Trong vòng 30 ngày kể từ khi một Tu chính Hiến Pháp được nhân dân phê chuẩn, cả ba ngành Hành Pháp, Lập Pháp, Tư Pháp phải bắt đầu các tu sửa cần thiết để tuân thủ việc Tu chính này.
CHƯƠNG XI: VIỆC PHÊ CHUẨN HIẾN PHÁPĐIỀU I: Duy nhất chỉ nhân dân Việt Nam, với đa số 2/3 trên tổng số phiếu bầu, mới có quyền hành tối thượng trong việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn Bản Hiến Pháp của Nền Đệ Tam Cộng hòa Việt Nam.


http://www.blogger.com/profile/03985646673817765348